












“Đến CĐ mà không viếng NTHD là xem như chưa đến CĐ” - cô hướng dẫn du lịch xứ biển đã khẳng định như đinh đóng cột- “Vì nơi đó đang sở hữu điều không đâu trên dãi đất hình chữ S này có được”. Nằm khiêm nhường dưới những hàng dương hiên ngang trên nền cát trắng và gió biển, NTHD gần như vượt khỏi hội chứng “hoành tráng hóa” thường thấy ở nhiều công trình trong đất liền. Nhưng đàng sau nét đơn sơ, đến mức như “thuận theo tự nhiên” ấy là cả ý đồ nghệ thuật ... được các kiến trúc sư tính toán đến từng xăng ti mét. Cánh cổng đơn sơ với kết cấu như khung hình chữ nhật, bên dưới là bậc tam cấp được thiết kế theo hình bán nguyệt... Nhưng bên trong cái lớp vỏ đơn sơ ấy hàm chứa nghĩa thâm sâu về cuộc vuông – tròn của luân hồi. Hơn thế nữa, đây có lẽ là nơi duy nhất ở Việt Nam không sử dụng cụm từ “nghĩa trang liệt sĩ”... Đó không phải là sơ suất, mà là có chủ ý để vươn tới xóa nhòa giới hạn sinh –tử của những “cái chết đã hóa thành bất tử”. Bước qua cổng, là con đường nhỏ, gần như nguyên trạng với danh xưng “Đường Thiên Thu” mà xưa kia các người tù đã đặt tên cho lối đi đưa đồng đội, đồng chí về nơi vĩnh hằng. Từ đây, con đường uốn lượn dưới những tàn dương cổ thụ dẫn đến 5 phân khu được đánh dấu theo chữ cái ABCD, trong đó có B1 và B2, với tổng số 1.921 ngôi mộ, trong đó có 25 mộ tập thể, nhưng chỉ có 713 mộ có tên, còn 1.208 mộ chưa xác định được danh tính.
Ngoại trừ một số ngôi mộ được trùng tu, xây mới khang trang và có đầy đủ tên họ, quê quán, như Tổng Bí thư Lê Hồng Phong, chí sĩ Nguyễn An Ninh, Anh hùng Võ Thị Sáu.... phần lớn các ngôi mộ còn lại gần như được giữ nguyên hiện trạng. Nói chính xác hơn là lô xô, không hàng lối, cái trên cao, cái dưới thấp, có cái cheo leo giữa bờ dốc... hoàn toàn khác biệt với các nghĩa trang liệt sĩ thường thấy. “Việc duy trì này không chỉ biểu hiện lòng tôn trọng và bảo tồn tinh thần – nghĩa trang của những người tù yêu nước – mà còn nhằm hướng tới ý nghĩa nhân văn hơn với xương cốt những người đã khuất”- cô hướng dẫn cho biết thêm- “Trong 113 năm (1862-1975) tồn tại, chính quyền chế độ cũ đã sát hại trên 20.000 người yêu nước vĩnh viễn nằm lại trên đảo. Trong đó, có nhiều người không kịp và không thể nào có thể đắp được nấm mồ như lời bài thơ khuyết danh: “Núi Côn Lôn được pha bằng máu, đất Côn Lôn năm, sáu lớp xương người”. Và chúng tôi không ai bảo ai, tự động đi thật nhẹ, nói thật khẽ, ngay sau khi từ loa phóng thanh được bố trí cách điệu ven các lối đi trong nghĩa trang cất lên giọng nữ trầm: “Dưới chân chúng ta, trong từng nắm đất, gốc cây còn lẩn khuất xương cốt của rất nhiều nhà yêu nước, cách mạng... xin các quý khách hãy nói thật khẽ, đi thật nhẹ để tránh làm đau và làm thức giấc...”.
Như nằm ngoài vùng phủ sóng của tiếng gió biển từ xa khơi đồng vọng về, màu khói hương nghi ngút bao trùm, như khiến không gian NTHD tĩnh lặng và trầm mặc đến mức gợi cho tôi không khí trang nghiêm thường gặp ở đám giỗ quê ngày xưa chưa xa. Nhưng đám giỗ thì chỉ cúng một hoặc vài người, còn ở đây.... Và tôi đã hiểu vì sao NTHD được xem như “Bàn thờ Tổ quốc”.
Đêm... sáng
Biết tôi lần đầu đến CĐ, ông chủ “Nhà nghỉ” khuyến nghị: “Tối nên ra NTHD thắp nén nhang...”. Đã 11 giờ đêm, nhưng quán xá ở CĐ vẫn sáng đèn. Bởi đây là thời điểm người dân và du khách bắt đầu hành trình đến viếng và “thắp nhang” NTHD. Tất cả các tuyến đường từ trung tâm dẫn ra NTHD luôn nhộn nhịp phương tiện đi - về. Vì nhiều người nghĩ rằng về đêm, âm khí thịnh, hồn thiêng của các chí sĩ cách mạng sẽ về chứng giám. Tất cả như phác họa thành bức tranh đa tầng màu sắc về bóng đêm của CĐ: Đêm... sáng.
Vừa bước qua cổng, tôi ngạc nhiên đến sửng sờ khi toàn bộ 20ha của khuôn viên NTHD rực sáng từ bóng điện... Thậm chí, hơn thế nữa. Ánh sáng từ những ngọn nến, những bát hương trên từng ngôi mộ như thêm nghi ngút, như thêm lung linh bởi người đi trước thắp chưa kịp tàn, đã có người đi sau thắp tiếp. Rồi dòng người như gối lên nhau đến, tiếng khấn vái râm ran... xen lẫn với tiếng gió đêm từ biển đồng vọng về khua lên lá khô xào xạc, hòa trong tiếng lá dương lao xao... khiến cho không gian thêm huyền ảo, lung linh...như NTHD không ngủ để đánh thức cảm xúc thiêng liêng từ tận đáy lòng du khách... giữa màn đêm linh thiêng thần thánh!
Nằm ở cuối con đường từ cổng chính dẫn vào, nhưng Khu A lại thu hút nhiều người đến viếng. Không chỉ vì có số lượng mộ nhiều nhất trong 5 khu (690 ngôi mộ) mà còn vì có mộ của cố Tổng Bí thư Lê Hồng Phong, Chí sĩ Nguyễn An Ninh, Anh hùng Lương Thế Trân... Đặc biệt Khu B2 - nơi có mộ Anh hùng Võ Thị Sáu (Cô Sáu) càng đông người hơn. Vào ra tấp tập, nhưng theo trật tự xếp hàng chờ đến lượt mình bày hương đăng, trà quả lên rồi khấn vái. Dù lưu luyến như chẳng muốn rời xa, nhưng rồi ai cũng tranh thủ lui ra để nhường chỗ cho người phía sau. Cứ thế, hết đoàn này đến đoàn khác, phần mộ của người nữ Anh hùng Đất Đỏ lúc nào cũng nghi ngút khói, hoa trái... Nhiều người cho rằng, sở dĩ, du khách đến viếng mộ Cô Sáu nhiều vì Cô mất lúc còn trẻ nên rất linh thiêng với nhiều “hiển linh” cầu được - ước thấy.
Dẫu biết rằng, mọi so sánh đều khập khiễng, nhưng tín ngưỡng hay niềm tin Cô Sáu gợi tôi nhớ đến hiện tượng hút khách của “Bà Chúa Xứ Núi Sam” (An Giang). Nhưng sự khác biệt ở đây là niềm tin Cô Sáu bắt nguồn từ sự thật lịch sử. Hơn thế nữa, không chỉ hút người ở xa,người CĐ xem Cô Sáu như huyền năng chở che trong cuộc sống đời thường. Hàng chục năm nay, mỗi khi chuẩn bị “làm ăn lớn” hay các cặp đôi trước khi kết hôn, đều ra mộ thắp nhang cầu Cô Sáu phù hộ “ăn nên làm ra” và “trăm năm hạnh phúc”....
Càng về khuya, các cung đường dẫn về NTHD càng tấp nập. Chưa biết những người khấn nguyện có được như ý nguyện, nhưng có điều chắc chắn là Đêm sáng mang đến cho người du lịch chúng tôi trải nghiệm thú vị và tràn đầy tự hào lịch sử. Và tôi nghĩ, đây sẽ là đề tài hấp dẫn cho các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian làm phong phú thêm sản phẩm lịch sử - văn hóa độc đáo giúp cho “ngành công nghiệp không khói” Côn Đảo thăng hoa, bay lên với sắc thái “không đâu có được”.
Ngày 10.5.2012, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 548/QĐ-TTg công nhận quần thể 20 di tích Nhà tù Côn Đảo là Di tích Quốc gia Đặc biệt trong đó có NTHD