Nhờ sự chỉ dẫn của một “cao niên phượt thủ” tên Sơn Thái (nickname Cừu) và sự giúp đỡ của chị Elena Zubtsova, đến Yalta - một trong những thành phố nghỉ dưỡng của Crimea, chúng tôi 4 ngày trời ở khách sạn Tavrida vào năm 2020 đúng 155 tuổi nằm trên con phố vẫn giữ tên “Phố Lê nin” - ngay bờ biển Đen. Vơ vẩn loanh quanh Tavrida, bất chợt thấy tấm biển đá khắc tên những người nổi tiếng của nước Nga, chủ yếu là giới văn nghệ sĩ 155 năm qua từng nghỉ ở khách sạn.
Thế là hơi thảng thốt bởi thấy tên Anton Pavlovitch Chekhov (1860-1904). Thế là hơi tự ngượng, bởi tới Yalta mà quên phắt mất Chekhov đã từng 5 năm cuối đời (1898-1903) sống ở đây, quên phắt mất, Yalta là nơi ông viết “Người đàn bà có con chó nhỏ". “Mọi người kháo nhau rằng ở ngoài bãi biển có một người mới đến nghỉ: người đàn bà có con chó nhỏ. Đmitri Đmitrits Gurov, một người đến Ianta từ hai tuần nay và đã quen cảnh sống ở đấy, cũng bắt đầu tò mò muốn biết những người mới tới” (bản dịch của Phan Hồng Giang). Chekhov mở đầu truyện như vậy.
Sớm tinh mơ vơ vẩn từ Tavrida ra con đường ven biển, đi một lúc một lúc thì thấy bức tượng đồng, thoạt nhìn, biết ngay là hai nhân vật đặc biệt của Chekhov - người đàn bà có con chó nhỏ Anna Xergeevna (“Nhìn nét mặt, dáng đi, kiểu tóc và xống áo nàng mặc có thể đoán được rằng nàng thuộc loại người khá giả, con nhà gia giáo, đã có chồng và lần đầu tiến đến Ianta, nàng đi một mình và cảm thấy cuộc sống ở đây rất tẻ nhạt”), và Dmitri Dmitrits Gurov (“Gurov tuổi chưa đầy 40, nhưng anh đã có một đứa con gái 12 tuổi và hai đứa con trai bé đã đi học ở trường. Gia đình cưới vợ cho anh rất sớm, từ khi anh còn là sinh viên năm thứ hai, và bây giờ thì vợ anh trông già hơn anh đến hàng chục tuổi.”).
Trong tượng, người đàn ông cao lớn, đôi tay với những ngón thuôn dài, gương mặt, mái tóc, thôi đúng rồi như thể của Chekhov! Bèn chú mục vào đôi mắt người đàn ông và bàn tay phải đặt trên gióng ngang, cả mắt, cả tay hướng trọn về phía người đàn bà có con chó nhỏ.
“Người đàn bà có con chó nhỏ” là một chuyện tình (ái chà, nếu cứ cay đắng dùng thêm hai từ thông tục, thì gọi đó là chuyện tình ngoài luồng - ngoài vợ ngoài chồng) đượm buồn, và bức tượng cũng đượm buồn.
Nhà lưu niệm “Biệt thự Trắng” - ngôi nhà Chekhov ở năm năm cuối đời nằm trên đường Kirov (Sergei Mironovich Kirov là một nhà Cách mạng Nga) cách không xa bao lăm khách sạn Tavrida. Lượn phố Yalta, thoang thoảng nhớ Đà Lạt, bởi cũng những con phố nhỏ hẹp uốn lượn trên đồi, những biệt thự xinh xắn và ôi chao là những cây xanh.
Vào nhà, đi qua những căn buồng thấy những món đồ Chekhov từng dùng, thong dong đếm bước trên những lối nhỏ trong vườn nghe lạo xạo sỏi dưới chân, hít căng lồng ngực những làn hương hoa thơm ngát, hay thinh lặng ngồi lâu dưới gốc cây (hình như là thông) do chính tay Chekhov trồng, chăm tỉa, tưởng tượng hơn 120 năm về trước, ông bác sĩ-nhà văn, một người đa tài viết và cũng rất đa tình, từng sống nơi đây với vợ xinh đẹp Olga Knipper (người mà chuyện bên lề văn chương coi là mẫu của nhân vật trong truyện ngắn “Người đàn bà phù phiếm”), viết hai vở kịch xuất sắc “Ba chị em”, “Vườn anh đào” và rất nhiều truyện dài, truyện ngắn, từng tiếp đón những nhà văn bậc nhất nước Nga thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20: Lev Tolstoy, Bunin, Kuprin, Gorky, Korolenko…
Rồi bất chợt hoang tưởng hơi phổng mũi tự tự hào vì cũng được học chung trường với Chekhov - Đại học Tổng hợp quốc gia Moskva. Từ năm 1879 đến năm 1884, Chekhov học ở Khoa Y; năm 1880, ở tuổi 20, ông bắt đầu viết báo, viết văn. 24 năm của đời, ông kịp viết, tính ra gần 600 truyện ngắn, tiểu thuyết, hơn 10 vở kịch. Quả một gia tài đồ sộ để lại cho nền văn học Nga!
Chợt nhớ, đâu đó, đọc được một câu của nhà văn Pháp, đại để, sau Chekhov cho tới ngày nay, khó có một nhà tiểu thuyết nào dám cả gan khẳng định rằng anh ta/chị ta không chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của Chekhov.