Từ ngàn xưa tới nay, xứ Thanh là một trong những cái nôi của lễ tục, lễ hội, trò chơi, trò diễn đặc sắc, lay động hồn người. Lễ hội truyền thống tỉnh Thanh được cả nước biết đến như vùng đồng bằng: lễ hội Mai An Tiêm, đền Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Quang Trung… và "nhất vui là hội Phủ Dày/Vui thì vui vậy chẳng tày Sòng Sơn"; miền núi: Lễ hội Khai hạ ở suối cá thần, hội Nàng Han, lễ hội Mường Ca Da, Mường Xia, Mường Đủ; lễ hội miền biển tôn vinh Hội đồng thần linh của tổng Lương Niêm (Sầm Sơn), lễ hội cầu ngư.
Các lễ tục phong phú và đặc sắc. Điều dễ nhận thấy là tín ngưỡng phồn thực khá phổ biến có ở khắp mọi vùng miền. Tiêu biểu như trò Chụt, trò Lý Liên, tục chơi Hang Lãm, cướp hệch... thể hiện khát vọng của nhân dân mong cho mùa màng, cây trái tốt tươi, vật nuôi sinh sôi nảy nở, dân khang vật thịnh.
Xứ Thanh là cái nôi của trò diễn. Trò Xuân Phả với hệ thống 5 trò diễn mang đậm yếu tố văn hoá cung đình gắn với các triều đại Đinh - Lê và Hậu Lê và đã được dân gian hoá, múa đèn (Đông Anh, Thiệu Quang), trò Tiên Cuội, trò Chuộc (múa rối), trò ngũ Bôn, trò Thuỷ, trò Thiếp, trò Chiềng...
Đồng bào Thái có múa quạt, múa nón, trò diễn Kin Chiêng boọc mạy, đồng bào Mường có múa Pồng pông, người Dao có múa rùa, múa bát, người Mông có múa Ô, múa Khèn... phản ánh cuộc sống lao động và địa bàn cư trú của mỗi tộc người ở các vùng miền, đó còn là nguồn gốc của nghệ thuật sân khấu bác học sau này.
Thanh Hoá là miền đất của dân ca, dân vũ phong phú và đa sắc màu. Ít có nơi đâu trên mảnh đất hình chữ S này, chỉ một dòng sông lại mang đến 2 làn điệu dân ca độc đáo đến vậy. Sông Mã phía thượng nguồn chảy qua bao ghềnh thác, bọt tung trắng xoá, tiếng nước gầm gào chỉ chực ăn tươi nuốt sống những bè mảng nhỏ bé. Nơi đó con người cần hợp sức để vượt qua nên có điệu "Dô tả dô huầy" của hò sông Mã.
Nhưng cũng dòng sông ấy, qua đập Bái Thượng, nước chảy về miền đồng bằng êm đềm, mênh mang tưới mát cho ruộng đồng, in rõ bóng trăng trong những đêm tát nước gầu sòng nên lại có làn điệu dân ca Đông Anh "Lên chùa bẻ một cành sen/ Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng...". Không còn là sự dũng mãnh, nhịp rắn rỏi, cộng hưởng như hò sông Mã nữa mà êm đềm, dịu nhẹ, thân thương chẳng kém gì làn điệu quan họ của người Bắc Ninh.
Rồi còn đó nhiều làn điệu dân ca phong phú và đặc sắc như hát giao duyên, dân ca nghi lễ, hát đối đáp, hát ru... ở miền quê nào cũng có.
Tộc người Mường ở Thanh Hoá cho đến nay vẫn còn giữ được dấu ấn của văn hoá Đông Sơn qua ngôn ngữ, tín ngưỡng và đặc biệt với nghệ thuật hoa văn thêu dệt và nghệ thuật sử dụng âm nhạc cồng chiêng.
Đồng bào các dân tộc thiểu số có vốn văn hoá văn nghệ dân gian đặc sắc và phong phú như Khặp (Thái), Xường rang, Bọ mẹng (Mường), Pả dung (Dao), hát Tơm (Khơ Mú), hát giã cốm (Thổ)... Người Mường xứ Thanh tự hào với: "Đất thì xường, Mường thì rang/ Kẻ chợ, Mường ngoài còn đang có tiếng".
Dân ca chính là điệu hồn của đồng bào các dân tộc tỉnh Thanh với nhiều cung bậc tình cảm tinh tế, thiết tha mà đằm thắm ngợi ca con người, cuộc sống và cảnh vật thiên nhiên.
Mỗi vùng miền, làng bản ở xứ Thanh đều có những sản vật nổi tiếng gắn với văn hoá ẩm thực như cá mè sông Mực, nước mắm Do Xuyên, chè lam Phủ Quảng, cam, hến làng Giàng, phi Cầu Sài, mía tiến Triệu Tường, vịt Trạc Nhật, cà làng Hạc, khoai lang làng Lăng, bánh chưng Cầu Hậu, cháo đậu Quán Lào… đến làng quê nào ở xứ Thanh cũng đều bắt gặp để lúc rời xa nỗi nhớ lại tìm về:
… Ai về nhớ vải Đông Hoà
Nhớ cau Hổ Bái, nhớ cà Đan Nê
Nhớ dừa Quảng Hán, Lưu Khê
Nhớ cơm chợ Bản, thịt dê Quán Lào…
Miền núi tỉnh Thanh cũng không kém những đặc sản về văn hoá ẩm thực như đồ ăn cơm đồ, lợn thui, cá hấp, canh lóng, canh uôi… Đồ uống: rượu cần, rượu siêu, chè xanh… Trong văn hoá ẩm thực của đồng bào còn duy trì trong cuộc sống hôm nay vẫn còn “phả ra hương vị sơ sử” (PGS Từ Chi).
Là miền đất của giao lưu buôn bán từ xuôi lên ngược và từ ngược về xuôi theo dòng Mã giang lắm thác nhiều ghềnh. Song cũng chính nơi đây đã từng xuất hiện một loại chợ - chợ văn hoá - chợ tình duyên (có trước chợ tình Khau Vai 400 năm) làm đắm say lòng người nhiều thế hệ, đó là chợ Quan Hoàng - chợ tình mà nàng Nga mở hội kén chồng để rồi kết duyên cùng Hai Mối.
Địa điểm mở chợ tình này là miền bán sơn địa (Cẩm Thuỷ - Vĩnh Lộc), địa bàn sinh sống của cư dân Mường Việt. Quan Hoàng - chợ tình duyên xốn sang lòng nam thanh gái lịch của ngày hôm qua, chợ này cần được phục dựng và sẽ là điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước dắt díu nhau về chợ. Tục chơi chợ Chuộng (Đông Hoà, Đông Sơn) là phiên chợ đầu xuân chỉ họp duy nhất một phiên trong năm. Phiên chợ có lệ tục lạ là "choảng" nhau để cầu may!
Là vùng đất cuối Bắc bộ không phải với những cánh đồng quanh năm trắng nước như ở Thái Bình, Nam Định, song vùng đất này cũng là một trong những cái nôi của trò rối nước, rối cạn: Trò chiềng, vật Bộc, rối Si/Cơm đắp kẻ Lở, cơm thi kẻ Lào
Trò múa rối cổ truyền còn có ở làng Chuộc (Ngọc Trực) nay là Thiệu Tiến, Thiệu Hoá. Con rối được làm to bằng em bé lên 8 lên 10 tuổi, trò rối làng Chuộc biểu diễn xong thì đốt con rối đi không để lại, đến khi nào cần diễn thì lại làm mới.
Thanh Hoá có một hình thức sân khấu độc đáo đó là “hát Bội” mà Bắc bộ hầu như không có. Hát bội (hát Tuồng) được các làng xã ven sông Mã và sông Chu vùng hạ lưu trình diễn. Hát tuồng là loại hình nghệ thuật mang tính cung đình, song cũng mang nhiều yếu tố dân gian với tổ nghề là Đào Duy Từ. Nơi đây là một trong những cái nôi của ca trù, được người Thanh Hoá gọi là hát ca công, hát cửa đình.
Về văn hoá tín ngưỡng, xứ Thanh gần như hội đủ các tín ngưỡng và tôn giáo bản địa cũng như ngoại nhập được người dân ở đây ngưỡng vọng và chiêm bái. Nhưng chỉ có ở miền đất này mới có tục thờ vị thần biển Độc Cước mang những giá trị khởi nguyên.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Đền Sòng, Phố Cát với điệu hát văn và "lảo đảo bóng cô đồng" thiêng liêng. Đặc biệt là Đạo Đông (Nội Đạo tràng), loại hình tôn giáo mang đậm tính dân tộc, phổ biến và ảnh hưởng sâu rộng cho tới năm 1945 mới dần phai nhạt… sẽ là niềm hứng thú, giúp cho các học giả và du khách nghiên cứu và giải mã.
Thành Nhà Hồ - di sản văn hoá thế giới đã trở thành điểm đến trên cuộc hành trình qua các miền di sản Trung bộ Việt Nam, cần phải nỗ lực phấn đấu để Khu di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam Kinh, kinh đô Vạn Lại-Yên Trường, Khu lăng miếu Triệu Tường xứng tầm cùng với hệ thống kinh đô cổ Việt Nam và Cố đô Hoa Lư, Huế, thánh địa Mỹ Sơn…
Di sản văn hoá phi vật thể như: Mo Đẻ đất đẻ nước, không gian văn hoá cồng chiêng của đồng bào Mường (Mường Thanh Hoá và Hoà Bình), trò Xuân Phả - phản ánh vị thế và sự bang giao của quốc gia Đại Việt, Hò sông Mã, Dân ca Đông Anh… tiếp tục được nghiên cứu, phát huy và xếp hạng, ghi danh và đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hoá Thế giới. Hệ sinh thái gắn liền với khu dự trữ sinh quyển như: Vườn quốc gia Bến En, hệ thống rừng Xuân Liên, Pù Luông, Phù Hu, thảm thực vật và rừng cây Đảo Mê… cần được khảo sát, nghiên cứu để bảo vệ xếp hạng, mở cửa đón du khách tham quan, thưởng ngoạn.
Trải qua nhiều nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, xứ Thanh luôn là miền đất hiểm yếu để hợp binh, chờ thời cơ diệt giặc; vùng đất địa linh sinh cho đất nước những tướng lĩnh tài ba, văn nho xuất chúng "lên ngựa cầm gươm, xuống ngựa cầm bút", họ chính là "những con người đã hoá núi sông ta", làm rạng rỡ nòi giống Tiên - Rồng.
Xứ Thanh - nơi lắng hồn núi sông ngàn năm, miền đất trầm tích các lớp văn hóa, lịch sử; đồng hành và có nhiều đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc. Hãy đánh thức và phát huy những tiềm năng và thế mạnh ấy, để xây dựng và phát triển bền vững đất nước, quê hương trong thời kỳ hợp tác, hội nhập cùng phát triển.