Xuân về, hoa mận nở trắng xoá trên những triền đồi cũng là lúc trai, gái người Mông xúng xính váy áo đi trẩy hội. Những chiếc váy với đủ sắc màu sặc sỡ, như một rừng hoa xuân giữa mây trời Tây Bắc.
Đối với đồng bào Mông vùng cao, đây là dịp để họ được nghỉ ngơi sau một năm lao động vất vả. Những lo toan gác lại, nhường chỗ cho những quả pao, điệu khèn, điệu múa của đôi trai gái yêu nhau.
Trong dịp lễ, Tết, thứ không thể thiếu trên mâm cỗ cúng, mâm cơm của người Mông là bánh giầy. Món bánh này không chỉ là món ăn truyền thống có ý nghĩa tâm linh sâu sắc, còn là món ăn để đãi khách, làm quà biếu khi khách đến thăm nhà.

Là một người con dân tộc Mông, sinh ra ở xã Hang Kia, huyện Mai Châu, tỉnh Hoà Bình, đã hơn 40 năm nay, kể từ khi lớn lên, anh Sùng A Dính đã được cùng bố mẹ làm những công đoạn chuẩn bị để làm nên một chiếc bánh giầy hoàn chỉnh. Món bánh tưởng chừng như giản dị nhưng đã in sâu vào trong tâm trí anh và những người con bản Mông cho dù có đi xa quê ngàn vạn dặm.
Anh Dính chia sẻ: "Không ai biết bánh giầy có từ bao giờ, chỉ biết rằng nó đã gắn bó với đời sống người Mông ở khắp vùng Tây Bắc như một thứ không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt cũng như tâm linh trong những ngày lễ, Tết".
Cũng theo anh Dính, bánh giầy của đồng bào dân tộc Mông làm rất công phu. Để làm được những chiếc bánh giầy thơm, dẻo cần chọn loại gạo nếp nương trắng, thơm, hạt to đều, khi đồ lên sẽ cho xôi dẻo.
Gạo được vo, ngâm nước khoảng 6 - 8 tiếng, vớt ra để ráo, vào chõ để đồ. Sau khi đồ xôi từ 1 - 2 tiếng, mang ra giã bánh ngay khi xôi còn nóng.

"Bánh giầy phải được giã trong cối làm bằng thân cây gỗ chắc, thớ mịn, có mùi thơm và khoét rỗng ruột, chày giã bánh được làm bằng các loại gỗ cứng và nặng.
Giã bánh giầy đòi hỏi nhiều sức lực, do đó, những người tham gia giã bánh thường là những người đàn ông, thanh niên khoẻ mạnh, đặc biệt phải phối hợp rất nhịp nhàng" - người đàn ông dân tộc Mông này cho hay.
Nói về kinh nghiệm dã món bánh đặc trưng, anh Sùng A Mua (xã Tà Xùa, huyện Bắc Yên, Sơn La) cho hay, giã bánh giầy phải nhanh, có kỹ thuật.
Nếu giã không nhanh và không dứt khoát, chày sẽ bị dính xôi, khi đó người giã mất sức vì khó nhấc chày lên, xôi lại không mềm nhuyễn. Việc giã bánh tưởng chừng như đơn giản nhưng lại đòi hỏi người có kinh nghiệm. Giã càng kỹ, bánh càng dẻo ngon và để được lâu.
"Khi bánh giã xong, những người phụ nữ Mông thường lấy trứng gà luộc lên, sau đó dùng lòng đỏ để xoa đều lên tay và lá gói để nặn và gói bánh không bị dính, cũng như tạo hương vị thơm của bánh" - anh A Mua nói.

Có lẽ điều đặc biệt nhất của bánh giầy người Mông so với bất kỳ loại bánh nào khác là bánh không có nhân, cũng không có gia vị, nhưng khi ăn lại có một hương vị rất đặc trưng. Đó là vị thơm dẻo của gạo nếp nương, vị ngọt tự nhiên của gạo và hơn hết, cũng bởi tiếng chày giã bánh khiến không khí ngày hội càng thêm vui và rộn ràng.
Hương vị rất riêng của món bánh này đã khiến bao du khách để nhớ, để thương và chờ mong được thưởng thức mỗi khi đến vùng cao dịp xuân về.
Ông Đào Văn Nguyên - Chủ tịch UBND huyện Bắc Yên chia sẻ: "Bánh giầy của người Mông, trước đây thường chỉ được giã trong các ngày lễ Tết của dân tộc để mời khách quý, làm quà.
Những năm gần đây, các tour du lịch, homestay đã tổ chức dã bánh giầy để phục vụ du khách, mở ra một sản phẩm du lịch trải nghiệm mới cho địa phương".