








“Miếu An Sơn là “địa chỉ đỏ” với tất cả du khách đặt chân lên CĐ. Không chỉ vì là di tích cổ nằm giữa khung cảnh đẹp, hữu tình... mà vì chứa đựng nhiều giá trị...có thể mang lại cho du khách nhiều cảm xúc mà các điểm đến khác không có được”- lời “mách nước” của ông chủ nhà nghỉ là sĩ quan Bộ đội Biên phòng đã khiến máu “xê dịch” trong tôi sôi lên. Thế là đi. Mờ sáng tôi hối đồng nghiệp thuê xe viếng Miếu An Sơn. Từ trung tâm thị trấn Côn Đảo, đi hơn 02 cây số về hướng Đông - Nam trên trục đường Nguyễn Huệ, Tôn Đức Thắng là đến. Đó là ngôi miếu nhỏ nằm dưới chân Thánh Giá - ngọn núi cao nhất CĐ, quanh năm ẩn mình trong thảm lụa mềm của sương mù. Thánh Giá còn được ví như đỉnh thiêng với nhiều truyền thuyết “linh ứng” về tình yêu.... Chính vị thế địa lý độc đáo này đã phủ lên ngôi miếu nhỏ của làng An Hải sắc thái hư hư - thực thực: Vừa có chút lãng đãng, bồng bềnh mờ ảo sương khói liêu trai, vừa hiện hữu giữa đời thường...
Lưng tự núi, mặt hướng ra Hòn Bà nằm giữa bốn bề tiếng sóng biển từ trùng khơi vỗ về... đó là vị trí đắc địa của ngôi miếu về mặt phong thủy, nhưng An Sơn lại hút hồn du khách ngay cái nhìn đầu tiên bởi không gian hùng vĩ với lớp lớp cây xanh đại ngàn ngân nga khúc nhạc tiếng lá rừng lao xao gọi gió du dương, êm ái - một trạng thái hoàn toàn khác với thế giới ầm ào, sôi động của tiếng sóng biển vỗ bờ cách đó không xa. Bước qua cổng tam quan được thiết kế độc đáo với mái đao cong vút hình đầu rồng “cưỡi mây, phun nước” in trên nền trời xanh, là khoảng sân rợp mát bóng cây cổ thụ, trong đó có nhiều cây thị rừng hàng trăm năm tuổi, vừa được công nhận là “Cây Di sản”.
Những gốc cây xù xì dấu tích thời gian đủ gợi cho du khách cảm giác xa xưa của lịch sử hình thành ngôi miếu. Theo ông Tư – người trông coi nhang khói - Miếu An Sơn được xây dựng lần đầu cách đây hơn 200 năm... Lúc đầu chỉ nhỏ bé, đơn sơ, sau nhiều lần trùng tu, hiện miếu có kiến trúc hình chữ nhất, 3 gian, vách tường, mái lợp ngói vảy cá đỏ, nhưng thời gian đã nhấn nhá thêm sắc rêu phong nên khá cổ kính và trầm mặc... Thoạt nhìn, ngôi miếu rất đỗi bình thường. Ngoại trừ phía trên cổng gian chính có tấm biển nền vàng với 3 Hán tự màu đỏ được viết theo lối chữ Khải (An Sơn Miếu - tức Miếu An Sơn) tạo ra điểm nhấn, còn lại đều rất “đời thường”. Phía trước sân là bàn thờ thông thiên, bên trong là 4 ngôi thờ. Tất cả đều được bày trí đơn giản và khiêm tốn như chính quy mô ngôi miếu. “Thấy vậy chứ ngôi miếu này nhiều ý nghĩa lắm” – ông Tư thật lòng sau khi thấy tôi háo hức tìm hiểu: “Theo truyền thuyết, miếu liên quan đến câu chuyện về chí tự cường của bà Hoàng phi...”
Hừng hực chí tự cường
Theo lời kể của ông Tư, Miếu An Sơn còn có tên là Miếu Bà, hay Chùa Bà vì bên trong thờ thứ phi của chúa Nguyễn Ánh (1762-1820), sau này là vua Gia Long. Tương truyền, bà Phi Yến có tục danh Lê Thị Răm. Khoảng năm 1783, trong lần bị quân Tây Sơn truy đuổi, chúa và đoàn tuỳ tùng chạy ra CĐ, trong đó có bà hoàng Phi Yến và con trai là Hoàng tử Hội An (tục danh Hoàng tử Cải). Vì thất bại liên tục nên chúa có ý định đưa Hoàng tử Cải tháp tùng giám mục Bá Đa Lộc (1741- 1799) sang Pháp làm con tin để cầu viện binh. Không đồng tình, bà Phi Yến khuyên chồng không nên cầu viện binh, vì việc đánh nhau với Tây Sơn, có thể coi như việc trong nhà, nên dùng nghĩa binh trong xứ: “Bệ hạ nhờ sức mạnh của người ngoài về giải quyết vấn đề nội bộ thì dù ta có thắng Tây Sơn chăng nữa cái thắng ấy cũng chẳng vẻ vang, thiếp e còn có lắm điều rắc rối tai tiếng về sau...”.
Nào ngờ, những lời khuyên đầy chí tự cường ấy của bà Phi Yến bị chúa nghi ngờ là có ẩn ý thông đồng với Tây Sơn nên đã nổi trận lôi đình...May thay lúc đó Đô đốc Ngọc Lân khuyên can, chúa tha tội chết, nhưng biệt giam bà Phi Yến trong động đá ở một hòn đảo hoang, sau này hòn đảo ấy gọi là Hòn Bà... Mấy hôm sau, được tin Tây Sơn sắp truy kích, Nguyễn Ánh đã cùng tùy tùng xuống thuyền đào tẩu. Lúc thuyền sắp nhổ neo, Hoàng tử Cải (5 tuổi), không thấy mẹ đã khóc lóc, kêu gào phải cho mẹ cùng đi. Yêu cầu của Hoàng tử Cải không được chấp nhận và trong cơn nóng giận, Nguyễn Ánh đã con ném xuống biển. Hoàng tử Cải chết, xác trôi dạt vào bãi San Hô, làng Cỏ Ống. Dân làng đem xác chôn giữa khu rừng gần bãi Đầm Trầu. Bà Phi Yến, sau khi được dân làng giải cứu, biết con trai mất, vô cùng đau xót, gào khóc thảm thiết. Dân làng cám cảnh, đặt ra câu ca đầy cảm xúc:
“Gió đưa cây Cải về trời/ Rau Răm ở lại chịu đời đắng cay”
Như để tăng độ tin cậy của lời kể, ông Tư đưa tôi xem quyển sách Di tích lịch sử CĐ, có phần giới thiệu về miếu An Sơn. Cẩn thận hơn, ông đưa tôi ra sân để trực tiếp xem bản giới thiệu sơ lược về miếu An Sơn do BQL Di tích CĐ thực hiện, cũng thể hiện nội dung tương tự. Thấy tôi hào hứng, ông Tư lại đưa tôi đến hòn non bộ nằm trước khu vực bàn thông thiên, rồi giải thích thêm: “Đây là hòn non bộ tái hiện lại hang đá bà Phi Yến bị chúa giam cầm”.
Theo lời ông Tư, tương truyền, Rằm tháng Bảy năm Ất Hợi (1785), sau khi dự lễ xá tội vong nhân do Ban Hương chức làng An Hải tổ chức, bà bị tên Biện Thi đem lòng tà dục, mò vào cấm phòng nắm tay. Tủi phận, bà tự chặt cánh tay bị xâm phạm rồi quyên sinh để giữ trọn tiết hạnh. Thương cảm, dân làng An Hải lập miếu thờ. Bài vị bà được đặt tại ngôi chính điện, hai bên tả hữu thờ Hoàng tử Cải và Đô đốc Ngọc Lân. Tương truyền miếu rất linh thiêng, dân đi biển hay đến khấn nguyên trước mỗi chuyến ra khơi...
Tuy nhiên, từ thập niên 40 thế kỷ trước đã xuất hiện ý kiến đòi xét lại khi cho rằng chúa Nguyễn Ánh chưa từng đến CĐ... Hiện cuộc tranh luận vẫn đang tiếp diễn. Ai đúng – ai sai, rồi đây sẽ có câu trả lời, nhưng trước mắt, câu chuyện đầy nỗi niềm, cảm xúc này như dệt gấm, thêu hoa cho CĐ thêm hấp dẫn trong con mắt du khách... Nhưng quan trọng hơn là cảm xúc, ý nghĩa mà câu chuyện muốn hướng tới. Có một sự thật khá lý thú là, dù bất đồng ý kiến, nhưng các bên tranh luận đều thống nhất thừa nhận: Đàng sau câu chuyện “nhốt vợ, ném con xuống biển” chính là nỗi niềm, là khát vọng tự lực, cường, bất hợp tác với chuyện “cõng rắn, cá gà nhà” của người dân CĐ từ thưở... hồng hoan. Phải chăng, chính là “chất lửa” của vùng đất và khát vọng tự cường của lòng người CĐ đã tiếp sức cho hàng ngàn chí sĩ yêu nước, nhà cách mạng có thêm sức mạnh biến CĐ từ “địa ngục trần gian” thành “trường học cách mạng”, góp phần làm nên chiến thắng vẻ vang cho 2 cuộc chiến đấu thần thánh của dân tộc?