Năm 1953, lẽ ra phải tổ chức lễ tế Nam Giao. Đức bà Từ Cung Thái hậu vẫn liên lạc với các nhà chiêm tinh cũ của triều đình, nên báo cho tôi biết ngày giờ thuận tiện để làm lễ. Lúc ấy, tôi đang ở Ban Mê Thuột, nên định rằng sẽ cử hành buổi tế ngay tại chỗ, vì con đâu cha mẹ đấy, theo phong tục Việt Nam.

Nơi đất được chọn là làng Boun Trap, cách xa Ban Mê Thuột hơn 10km, trên đường ra hồ và ở cửa rừng. Tôi cho đem đàn voi của tôi đến, độ 20 con to lớn đồ sộ, tập trung thành vòng tròn, để như là dâng buổi tế sống vậy.
Mỗi con vật đó, có một tiểu sử ly kỳ. Trong bọn này, đặc biệt có con gọi là Buôn Con, là con voi đực cao tới 3m. Khi tôi tới Buôn Đôn, viên chủ làng cho tôi mượn con voi này để đi săn. Đó là con vật giá trị nhất của ông ta. Thấy con vật cực kỳ tinh khôn, tôi đề nghị bán lại cho tôi, nhưng ông ta từ chối và kêu lên: “Người ta có thể lấy vợ tôi, lấy con gái tôi nhưng không lấy được voi của tôi...”.
Cuối cùng với sự hỗ trợ của viên công sứ sở tại, sau khi tổ chức nhiều buổi hội hè, viên tù trưởng mềm lòng và bằng lòng bán lại cho tôi. Những quản tượng Tây Nguyên đã đưa nó đến kho sưu tập thú rừng của tôi ở Quảng Trị. Khi đến gần Cam Lộ, họ liền trao cho các quản tượng miền Trung, vaà con voi kiêu hãnh này tòng phục ngay. Tôi cưỡi nó hàng tuần.
Theo gương của các tay săn bắn, thà chết đói còn hơn trồng một cây lúa, Buôn Con cũng từ chối làm việc, kể cả việc đi lấy thức ăn. Tôi phải đưa từ Huế ra một con voi cái, để gom góp đồ ăn lại cho nó. Buôn Con chấp nhận và ăn.
Nhưng voi cái lợi dụng lúc đi tìm thức ăn để lảng xa ra và chạy trốn. Có đến sáu lần như vậy. Cứ mỗi lần bỏ chạy Buôn Con phải cùng viên quản tượng đi tìm, đưa về đoàn. Đến lần thứ bảy, viên quản tượng lại đi tìm, khi bắt được con voi cái vô kỷ luật này thì bị nó quật chết tươi.
Buôn Con nghe được đủ mọi thứ tiếng thiểu số, tiếng Việt Nam và cả tiếng Pháp. Nó rất quen thuộc các động tác của tôi, để mỗi khi đi săn thì bao giờ cũng ngừng lại cách con mồi độ 40 thước, để tôi có thể bắn với độ hữu hiệu nhất.

Một hôm, có con hổ nhảy lên lưng nó từ phía sau và cào nó rất sâu. Vết thương bị nhiễm trùng. Cần phải giải phẫu nơi bả vai. Người thú y không có thuốc tê. Trong suốt thời gian giải phẫu người quản tượng nói với nó,bảo nó phải chịu đau một chút, vì điều đó có ích cho nó. Nó nằm im không nhúc nhích. Sau đó nó khỏi.
Năm 1945, Buôn Con bỏ vào rừng trong suốt thời gian tôi vắng mặt. Khi tôi trờ về năm 1949, nó lại về khu sưu tập thú rừng. Buôn Con chỉ có một ngà. Voi một ngà rất dữ tợn, nên khi trong thấy voi một ngà, các loài vật khác đều sợ hãi.
Vào đêm mùa xuân của tháng Tư, quãng 3h sáng, bên rừng đầy đuốc cháy sáng, chúng tôi hành lễ Nam Giao. Trong sự lặng thinh của núi rừng, giữa thiên nhiên tươi tốt, tất cả như thân cận gần nhau, nghi thức buổi lễ đã vô cùng cảm động, hơn cả buổi lễ ở đàn Nam Giao ở Huế. Tôi báo cáo lên trời đất sứ mạng của tôi và buổi tế đã kéo dài cho tới gần sáng.
Bất ngờ một con voi tỏ ra nóng ruột, bất thình lình tấn công con voi kế cận. Tất cả vòng tròn voi, như một lâu đài giấy bồi nghiêng ngửa, trở thành lộn xộn và tan rã. Tất cả những người dự lễ đều mạnh ai nấy chạy, cố gắng tránh những con vật hung hăng phá đổ mọi vật trên đường.
Tôi gọi Buôn Con, bảo nó đến gần tôi và ra lệnh cho nó dẹp cuộc bạo loạn này. Nó liền đi gọi từng con một lần lượt, có khi chỉ bằng vài tiếng hí, để bắt đứng vào hàng ngũ. Trong vòng 10 phút sau trật tự mới lại như cũ. Một số người từng theo tôi dự lễ này, cho rằng đây là “triệu chứng của nhà Trời””.