Khi đức tiên đế tôi là Hoàng đế Gia Long khôi phục được sơn hà, Ngài liền giữ đúng mỹ tục cổ hàng ngàn năm, đã quyết định đặt ra một buổi tế, để tạ ơn Trời Đất đã ban ơn cho khắp thần dân, cứ mỗi năm phải tế một lần, gọi là tế Nam Giao. Nhưng kể từ đầu thế kỷ 20, tế Nam Giao được rút xuống còn ba năm một lần.

Tế này chỉ dành riêng cho Hoàng đế, vốn kiêm nhiệm luôn chức vụ Đại giáo chủ để đứng trung gian giữa Thượng đế và con người, và Hoàng đế đại diện cho khắp cả thần dân.
Việc tế lễ này không liên quan gì đến Phật giáo hay việc thờ cúng gia tiên, cũng không dính líu gì đến những nghi thức về tôn giáo nào từng có ở Việt Nam. Thật sự, theo đúng tinh thần của cuộc tế, đây là việc cúng tế nằm trong triều chính, do nhà vua đặt ra, để tỏ sự tôn sùng đối với Ngọc hoàng Thượng đế, cai quản chư thần, đồng thời mang một hình thái cầu xin xá tội của bậc Hoàng đế, xin Đức Ngọc hoàng đại xá cho những lỗi lầm đã trót mắc phải. Vì vậy, cuộc tế lễ phải tỏ ra đồ sộ và vô cùng trọng thể.
Ngày tế được công bố trước ba tháng. Hoàng đế ra chỉ dụ và do Tào Khâm thiên giám đã chọn được ngày trước.
Lời cáo tri được một viên quan đại thần tuyên đọc không phải cho thần dân, mà để báo cho các vị Thần linh. Hai tuần lễ trước ngày tế, sẽ cáo tri với các đấng Tiên đế để cung nghinh các ngài về dự lễ.
Thế rồi, một sắc chỉ của Hoàng đế được ban bố vào ba ngày trước hôm tế, để nhắc nhở các người dự tế, phải trai giới và dọn mình cho thật thanh khiết.
Việc trai giới đó rất quan trọng. Để nhắc nhở nhà vua một cách cụ thể, trước đó bốn ngày, người ta mang một tượng bằng đồng, gọi là đồng nhân, rước đến cung điện của vua, để ngày đêm vua trông thấy vị thần tượng trưng cho trong sạch và chay tịnh này, hầu giữ mình cũng y như vậy.
Đúng hôm tế, mới 8h sáng, khi súng thần công báo hiệu mở đầu, một đám rước đang tụ tập sẵn ở điện Cần Chánh, được khởi hành rất nghiêm chỉnh ra đàn tế ở phía nam thành phố.

Đám rước chia làm ba đoạn, mỗi đoạn tương đương với một quân đoàn gọi là tiền quân, trung quân và hậu quân. Thoạt đầu là một hàng voi choàng đầy phẩm phục rất lộng lẫy, có một người quản tượng và một vị quan ngồi, có lọng che. Theo sau là đủ hạng nhạc công, mang các trống chiêng, các đồ nghi trượng, như loa đồng, cờ xí, hương án, tàn lọng và nhạc cụ.
Trung quân là nơi quan trọng nhất. Ngoài các phần việc, còn có lính thị vệ mang hèo và trượng là các loại vũ khí chỉ huy và hộ vệ, mang kiếm của vua và các tinh kỳ riêng biệt. Sau đó là nhóm vác cờ, thuộc các cờ biểu tượng của Thiên đình như cờ Đại hùng tinh, cờ Nhật/Nguyệt, và cờ ngũ hành thuộc về Dịch lý.
Vua ngồi trong chiếc ngự liễn sơn son thếp vàng đi ở giữa, xung quanh có các kiệu của các hoàng thân dòng huyết mạch, có các kỵ sĩ và các phường tuồng xênh xang bao quanh. Ngự liễn của vua được sáu người khiêng, che hai chiếc tán lớn, một vị đại thần đi phò giá, và hai hàng võ quan đi sát hai bên. Lính ngự lâm và cung thủ đi hộ vệ. Sau đó đến các xe tay kéo các vị thượng thư và các quan dự tế.
Hậu quân thì không mấy long trọng. Đó là hàng quân những người mang các nhạc khí như nhạc bát âm, một chiếc chuông lớn, 12 chiếc lục lạc nhỏ, một trống cái bằng gỗ, một trống cái lớn, gọi là đại cổ, để trên một giá trống thật lớn, 12 chiếc khánh đá, mỗi chiếc có một tiếng vang cao thấp khác nhau, một chiếc sáo lớn để trưng bày, một chiếc cổ cầm thật lớn. Nhiều phường chèo nhảy nhót làm trò khép hậu. Chúng mang rìu và mộc như chiến sĩ đi hộ vệ. Hai con voi khoác vải vóc lộng lẫy đi sau cùng đám rước.