Trong chữ Hán, phổ biến có ba chữ Nghi: Thứ nhất là chữ Nghi có nghĩa nên như thế, chỉ vào tư thế, vị trí… Thứ hai là chữ Nghi có nghĩa là kiểu dáng, chỉ vào trạng thái, tình thế… Thứ ba là chữ Nghi có nghĩa là ngờ vực, suy xét, chỉ vào tâm thái.
Ba chữ Nghi này, đọc âm như nhau mà nghĩa lại sai biệt khác nhau, rõ nhất là chữ nghi ngờ vực, từ Hán Việt quen dùng là nghi ngờ, nghi ngại. Hai chữ nghi kia, có sự khác biệt tinh tế hơn. Chữ nghi có từ Hán Việt quen dùng là uy nghi, còn chữ nghi có từ Hán Việt quen dùng là nghi thức.Hai chữ nghi này, rất dễ bị nhầm lẫn trong sử dụng, phải nhìn vào cấu trúc tạo chữ của chúng mới phân biệt được.
Chữ uy nghi, sử dụng chữ nghi có bộ nhân đứng phía trước, và chữ nghĩa đứng ở sau, phần mượn âm nghĩa để đọc, phần hội ý: người có dáng nghĩa khí, nghĩa đảm, chính là thể hiện uy nghi.
Chữ nghi thức, sử dụng chữ hội ý, gồm bộ miên (mái nhà) ở trên, và chữ thả (từ mạo đầu) ở dưới. Thật ra, chữ thả được viết từ chữ mục (con mắt) đặt trên chữ nhất, biểu hiện mặt đất. Nghĩa của biểu hiện này, là lấy con mắt đối chiếu với mặt đất để ngắm xem có bị thiên lệch, xiêu vẹo không. Người xưa vẽ hình con mắt, kê sát mặt đất, để thể hiện động tác ngắm, canh chỉnh, lấy tiêu cự… Như thế, dùng con mắt để đối xét, xem cây rường, cây thượng lương trên mái nhà có bị lệch vẹo không, đó là nghi.
Chữ nghi này, bởi vậy có ý nghĩa rất quan trọng trong đánh giá hành vi, lời nói, cung cách của mỗi con người, hay diễn tiến mỗi sự việc. Cái gì mà không đúng nghi thức, xiêu vẹo thiên lệch, thì đều không chấp nhận được, chắc chắn về sau sẽ hỏng, sẽ phát sinh sự cố.
Khi đặt chữ nghi này ra, con người phải biết đối soát lại, kiểm tra xem vấn đề có chỗ nào lệch lạc, thái quá hay bất cập không. Bày biện nghi lễ, thực thi nghi thức, đều là những việc cần sự chuẩn mực, chỉn chu, chính xác.
Chữ Nghi, vì thế không thể xem thường.
Sở dĩ tôi mạn về chữ Nghi, là vì hôm nay có ông anh, băn khoăn về thái độ nhân luân hỗn tạp, con người hiện tại ngày càng đi quá sự tiết chế lễ đạo, phạm đến những chuẩn mực cương thường truyền thống và làm lệch lạc đi tư duy, tâm thức con người trong xã hội.
Hậu quả của việc này, là con người ngày càng vô lễ, phóng túng, sai lệch hành vi và suy nghĩ, động thái và lời nói. Thậm chí, một số nội dung phạm về nhân luân đạo đức, tiết chế phẩm hạnh của con người cũng bị mạo phạm, biến thành sự dung túng và lỗi đạo trong hành xử cuộc sống.
Điển hình là những chuyện riêng tư trong quan hệ vợ chồng, chuyện chăn gối nam nữ, chuyện đạo hạnh gia trang, cùng những quan niệm về tính dục, chuyện dâm bôn tình ái… trước đây không tiện đưa ra biện luận, tả thuật, cho dù trong hoàn cảnh nào, thì nay lại là điều hiển nhiên, được người đời coi là chuyện trà dư tửu hậu, có thể đàm luận bông phèng, thậm chí đả kích trực diện với nhau.
Nhiều người lý luận rằng đó là sự tiên tiến hiện đại của thời cuộc, giúp con người thoát khỏi những ràng buộc cổ hủ và định kiến tiêu cực từ xưa. Song sự thật, những thay đổi trong tư duy, quan niệm như vậy là đi lạc với truyền thống cương thường, nhất là trong cách hành xử khoa giáo, văn hóa giao tiếp và ứng xử của con người.
Ông anh trình bày một cách tế nhị, là hoài nghi sự vi phạm văn hóa trong đời sống xã hội hôm nay. Còn tôi muốn chỉ đích danh đó là hành vi vi phạm nghi lễ, tức là sai lệch về vị trí chữ Nghi trong giao tế xã hội đương thời. Với tôi, chạm vào chữ Nghi, nghĩa là xã hội đã điên đảo, con người đã bị lay động nguồn gốc căn cơ, trật tự tôn ti bị câu dẫn méo mó, mọi thước đo đều không còn sự chuẩn mực nữa. Đây há không phải là mầm mống loạn xã hội, mạt pháp đời hay sao?