Khu Hoà Bình
Có những buổi sớm ngọn đồi tràn đầy sương. Ngôi dinh thự cổ nằm giữa đỉnh đồi vốn đã cổ xưa càng hoang liêu hơn, chập chờn ẩn ẩn, hiện hiện. Những cái cây long não cổ thụ ngồi đó như đang hóa đá, và những chòm rừng thông mong manh kia cũng đủ để bịt kín đỉnh đồi.

Có một loài cỏ dây leo hoa hoang dại sắc tím mà dân Đà Lạt gọi là Bâng Khuâng tràn ngập bên ngoài dinh thự này vào mùa khô nó bung bông làm thấm đượm thêm một tầng nữa khối kiến trúc gần trăm năm đó.
Ôi em nữ sinh trường trung học Nguyễn Du ơi, thời gian đã đủ để em sinh ra những hoa khôi, binh sĩ, thi nhân rồi, nhưng không biết em có còn giữ những tấm hình ta chụp cho em vào những buổi trưa bên loài hoa mà nghe cái tên đã không thể sống sôi nổi kia chăng vào những giờ khắc đỉnh đồi đứng gió.
Và Con Đường Tình - người phố núi gọi thế - tuyệt diệu nức tiếng của phố núi nằm dưới chân ngọn đồi, là đường Lý Tự Trọng đó, không biết có tàn phai trong tâm tưởng em khi tuổi đời bồi lên. Em gọi ngọn đồi đó là Dinh Tỉnh Trưởng, bồi cho ta - một kẻ nhập cư - thêm chút nữa “tri thức” về Đà Lạt.
Xưa ông Tỉnh trưởng các thời thuộc địa, và sau đó nữa, làm việc và sinh hoạt trong dinh thự do kiến trúc sư Pháp buổi ấy thiết kế này. Ta còn có những đêm bỏ Lữ Quán Thanh Niên để lên ở nhờ trong khu tập thể phía sau của nhân viên Bảo Tàng nữa mà, để tìm cảm giác được sống trong không gian của một dinh thự rêu phong.
Ta dân nhập cư mới, chẳng cần biết quá khứ quê người, nên ta gọi nó là Đồi Bảo Tàng, đơn giản vì chính quyền mới đang dùng nó để làm nơi trưng bày những cổ vật của địa phương. Từ độ em gác lìa cuộc mộng, theo người, thành mẹ, bảo tàng Lâm Đồng đã chuyển đi, đâu đó trong thành phố này. Nhưng cái dinh thự u hoài kia thì vẫn vậy, nó sừng sững, và sang cả theo thời gian.
Làm sao ta có thể quên được nó, Đồi Bảo Tàng chứ. Từ Ngã ba Chùa em băng lên đỉnh đồi để xuống chân đồi bên kia là bến xe Tùng Nghĩa, là khu Hòa Bình ấy, để bước về con phố Tăng Bạt Hổ cạnh đó. Đi rửa hình và đi giao hình ta vẫn lội xuống, leo lên con dốc đó.
Và ta còn lên xuống ba con dốc kia nữa, là dốc Tin Lành, dốc Lữ Quán, và dốc cầu thang lát đá granite sau chợ Đà Lạt, tức là mòn mỏi cả ở chân đồi, với đường Nguyễn Văn Trỗi, Bùi Thị Xuân, và Phan Bội Châu.
Con dốc nào ta cũng thương, dù nợ nần với nó, nhất là con dốc xuống chạm thẳng cái tiệm sửa xe Vespa bên vỉa hè nằm sát cầu thang sau chợ, cái chỗ mà giấc ngủ đầu tiên của ta khi rớt xuống thành phố quê em là ở đó.
Đà Lạt buổi ấy, muốn đi cho tiện là phải nhằm đường tắt, mà đường tắt nào cũng là đỉnh đồi nối với chân đồi bằng những lối nhỏ quanh co, tầng bậc, và đi giao hình - cho du khách đang ở các khách sạn - là cùng lúc khám phá lối đồi, ngách phố, cung đường của Đà Lạt ấy thôi.
Chúng ta thì gặp nhau trên đỉnh đồi, ở những lối quanh dinh thự, vào những trưa em tan học. Ta nghiện sự “Một mình” hơn cả yêu em. Vì thế những đêm cuối tuần ta lững thững cuốc bộ thả lối dốc xuống hướng Đông Nam để tìm đến quán cà phê nhỏ tí tên Văn chuyên mở nhạc Trịnh ở đường Phan Bội Châu, hay cà phê Tùng chuyên mở nhạc Tây ở lối dốc xuống hướng Tây chỗ khu Hòa Bình để tĩnh tâm thưởng thức tàn ngày.
Và ta cũng khó mà quên những lúc tiền nhiều thư thái một mình xổ con dốc hướng Tây để xuống tiếp dốc Sông Lô gần trăm bậc mà xem phim cao bồi miền Viễn Tây của Mỹ chiếu lậu từ băng từ Vidéo ở cái rạp tư nhân bé con nằm bên mép dốc.
“Cái tôi” của Đà Lạt
Phố trung tâm của Đà Lạt là thế, không thể tách rời khỏi ngọn đồi kia. Ngọn đồi ấy là phần “đực” của đô thị so với phần “cái” là hồ Xuân Hương. Như một sự kết hợp thú vị tinh ý của đất trời. Là sự trung hòa trong kiến tạo, sinh lực và bao dung, tinh tế và bền chắc trước tự nhiên. Nó chung một cơ thể đất đai, cho dù tên gọi là gì, “Hòa Bình” hay là thứ vỏ ngôn ngữ xưng lên gì nữa.

“Cái Tôi” của Đà Lạt là nằm dưới thiên nhiên, chứ không đòi “hơn” thiên nhiên. Kẻ nhập cư này mà còn khám phá ra phần hồn Đà Lạt, huống chi em, nó là bổn thị, quê nhà. Cái ngọn Đồi Bảo Tàng của ta, và là đồi Dinh Tỉnh Trưởng của em là “Ngọn đồi Trái Tim”, của phố núi, dù nó được xây tận thời Pháp thuộc, vào thập niên đầu của thế kỷ trước.
Chính ngọn đồi này tự thân nó đã là điểm nhấn của đô thị, là thứ “kiến trúc tự nhiên”, chứ không phải kiến trúc công trình, bởi mảng xanh thiên nhiên được lấy làm là chủ đạo, còn cái Dinh kia chỉ là phần điểm xuyết và nó được thanh bọc bởi quần thể cây long não, và thông nữa có trước khi Dinh ra đời.
Đâu phải thành phố nào cũng may mắn có một ngọn đồi thiên nhiên nằm giữa lòng mình. Từ chỗ nó, nhìn thấy Hồ Xuân Hương, thấy dãy Lang Biang, thấy nhà thờ Domain de Maria, ngọn Pinhat, núi Hòn Bồ xa xa, nghĩa là mọi hướng, và nhất là nhìn ngay xuống khu Hòa Bình, trung tâm sinh hoạt đô thị của Đà Lạt.
Mọi con đường ở khu vực trung tâm phố núi đều nằm dưới chân ngọn đồi của chúng ta (và của người Đà Lạt). Em có thể sinh ra thêm nhiều doanh nhân, thợ thuyền, chiến binh, như thành phố này có thể cho cất thêm nhiều nhà cửa, nhưng ký ức Pháp và chiều sâu văn hóa đô thị như ngôi dinh thự này của phố núi thì không thể sinh thêm, vì nó là hoa quả của một đoạn sử.
Em cũng biết rồi, thành phố này nổi tiếng, được người xa gần quí thích, và xưa nay ngành du lịch kiếm sống được nhờ giá trị “Pháp” đi cùng khí hậu. Ta không muốn người Tây xâm lược nước mình, nhưng cái đô thị Đà Lạt tử tế và đặc biệt mà họ tạo ra thì có thật, cúi đầu.
Người Pháp buổi đó đã tài trí nhìn xa, nghiêm cẩn quá phải không em, khi xem ngọn đồi này là báu vật cảnh quan, cùng với đồi Cù thấp nhấp nhô, hồ Grand Lac (hồ Xuân Hương, người Việt đặt lại tên), nên người ta cực kỳ nhẹ tay, không làm tổn thương, xem là khu vực đã định hình hình thái đô thị, nên họ định hướng chế định bất kiến tạo về sau.
Mười lăm năm qua, từ độ khu trung tâm Đà Lạt bị lạc đường, xô lệch, rồi tan vỡ, ta chẳng còn muốn ra đó nữa. Ngồi nhìn nó xót, sao chịu nổi. Ta biết lòng mình còn mong manh hơn cả phố núi đơn chiếc bé bỏng này. Ngay cả việc đi chụp hình dạo, hay cầm bút, anh cũng chẳng muốn viết gì về Đà Lạt nữa. Anh đau như mất một thiên đường, ngang với thuở mất em.
Suốt ba năm nay, chắc em nghe thấy chuyện người ta đang “tính chuyện” với ngọn đồi kỷ niệm của chúng mình. Người ta gọi nó là “Qui hoạch lại khu trung tâm Hòa Bình”, “Qui hoạch khu vực dinh Tỉnh Trưởng”, mỹ miều hơn là “chỉnh trang đô thị”. Để cả một đô thị ngọc ngà nguyên vẹn tan nát, cộng với ra tay phá hết “giá trị Pháp” rồi giờ bảo “chính trang”.
Ở đồi Dinh Tỉnh Trưởng đang ồ ào ở Đà Lạt này, người bình thường nhất cũng biết mọi thứ chỉ vì mảnh đất quá đắc địa trên đó, mảnh đất “ngon” nhất Đà Lạt. Thiên hạ đang nhắm vào “địa ốc”, chứ nào phải “kiến trúc” đâu, vì tác phẩm kiến trúc tuyệt vời thì đã có rồi- dinh thự độc đáo ấy.
Người ta tính xây một tổ hợp công trình khách sạn và dịch vụ to gấp năm lần dinh thự cổ kia để sẽ thế chỗ nó. Thấp thoáng ý định đập dọn luôn nó bị “phản ứng”, ma mị đến mức người ta bảo sẽ “di dời” dinh thự ấy đi vị trí khác, rồi lúc khác lại “nâng” nó lên cao hơn, khi mà họ không biết rằng với những ai sống ở Đà Lạt đều quá biết mọi công trình kiến trúc thời thuộc Pháp đó xây ở Đà Lạt đều không bao giờ có cốt thép.
Điều lạ là việc hành xử như thế đối với Dinh thự cổ kia đều xuất phát từ giới tinh hoa kiến trúc và qui hoạch ở TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Huế ... chứ không phải giới ấy ở Đà Lạt và người Đà Lạt.
Thành phố này đang bế tắc về tư tưởng, triết lý cho đô thị, nói rõ hơn là đã để mất triết lý, hoặc không cần đến triết lý. Em có thương ngôi dinh thự thì gác nửa giờ cơm áo mà lên nhìn nó lần cuối đi. Anh lại chạy lên nhìn nó thêm lần nữa vào trưa hôm qua rồi.
Ai sống ở Đà Lạt sang cả này cũng “nợ nần” những giá trị vốn có của nó. Du khách đến rồi đi mà còn thấy nợ nần với cái đẹp. Em ở đâu đó hãy làm thơ, hoặc vẽ tranh về những ký ức đẹp phố núi nhé, như thế đủ rồi. Ở dương gian cái gì cũng “vô thường”, huống chi một thành phố bất kỳ.