Cô bé hình như không hiểu, lại cười trêu ngươi: “Đố ông đoán được em là người Kinh hay người Lạch?”.
Cô bé trong trang phục người Lạch, thành viên của một đoàn ca múa chuyên phục vụ khách du lịch ở một thung lũng nằm giữa lưng chừng ngọn Langbiang trên “Hoàng triều cương thổ” – đất vườn của triều Nguyễn năm nào.
Nhưng dò xét mãi vẫn không thể trả lời được câu hỏi. Chỉ biết đoàn ca múa đêm nay khoảng 20 chục thành viên thì già phần ba là “thân Kinh áo Lạch”. Thầy tu, đôi khi chỉ là chiếc áo!
Trước khi chủ khách cùng hòa mình vào một đêm Xoang cùng tiếng cồng chiêng đánh thức cả thung lũng, “già làng” của đoàn ca múa tái hiện nghi lễ mời gọi thần núi, thần sông, thần lúa gạo, thần cây, thần lửa… về cùng chứng kiến và chung vui với những du khách từ rất xa hoan hỉ ghé thăm nhà.
Tôi thành kính làm theo nghi thức của “già làng” cùng những ý nghĩ mơ hồ về nỗi sợ mơ hồ rằng thần linh hình như đang cưỡi mây về thì giật mình. Vẫn “cô bé lúng liếng” ấy đứng cạnh khều tay cười rúc rích “họ đang diễn cho khách du lịch xem thôi ông ạ. Bọn em diễn thế này đã hơn chục năm rồi”.
Bỗng nghe mình cáu. Thầm nghĩ thì “ông của em” có đến mức ăn rồi nói chưa ăn đâu mà không biết là người của em đang diễn. “Ông của em” chỉ nghĩ là đã có người diễn thì tất phải có người xem và cùng… diễn lại với họ thì cuộc sống mới thêm phần thi vị.
Với lại, nếu không tranh thủ những giây phút như thế này để “diễn” thì biết đến đâu, tìm đâu ra, kể cả những buôn làng còn thuần khiết nhất để nghe được một âm vang cồng chiêng; một điệu múa Xoan cùng những nghi lễ giao tiếp với thần linh thật trong thời buổi này?”.
Ngẩn ngơ tự hỏi một hồi, ngó lại đã thấy cô bé rời tôi đi lúng liếng, thì thầm với một “ông” khác xa mờ sau ánh lửa từ lúc nào. Điệu Xoan lúc này đã biến tấu sang những bước chân và tiếng gầm rú của những chú voi rừng lắc lư nhịp nhàng theo tiếng cồng chiêng.
Nghe hoang dã như một trận làm tình kinh thiên động địa của đôi voi nhà được thiết kế mà tôi may mắn được xem qua điện thoại từ một nài voi bên hồ Lắk dạo nọ. Ông chủ voi còn thu điện thoại nhét vội vào túi như sợ bị mất cắp rồi thầm bảo “đây là hàng hiếm trăm năm có một” bởi gần như những con voi già ở Tây Nguyên đại ngàn sau bao nhiêu năm sống với con người đã gần như quên mất thiên chức giao phối và sinh sản.
Trận làm tình tưởng như dài vô tận làm tan nát cả một cánh rừng ấy cuối cùng cũng hoài thai. Nhưng tròn hai năm mang nặng đẻ đau của nàng voi nhà cuối cùng chỉ cho ra một “hài nhi” chán không muốn ở lại thế giới này trong sự tiếc nuối vô bờ bến của con người.
Để rồi hôm nay, những hình ảnh nguyên mẫu trong bài hát “chú voi con ở Bản Đôn” của nhạc sĩ Phạm Tuyên nức tiếng năm nào đã trở thành tiêu bản trong một nhà trưng bày ở Buôn Đôn mà tôi lưu giữ trong tiềm thức bỗng lần lượt nhảy múa sau ánh lửa.
Langbiang và còn rất nhiều những Langbiang khác ngoài “Hoàng triều cương thổ”; một đêm Xoang, tiếng cồng chiêng, những nghi lễ, cô bé lúng liếng không rõ người Kinh hay người Lạch… Mọi thứ hay ho mà tôi chứng kiến đêm nay hoa ra là những “tiêu bản” biết động đậy.
Kể cả nỗi sợ hãi thần linh mơ hồ thoáng qua trong tâm trí mình trước đó…