Hiện nay, theo quy định tại Bộ luật Lao động 2012, người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
Đặc biệt, nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.
Nếu trong quá trình làm việc, người lao động ký hợp đồng đào tạo nghề thì còn phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động.
Tuy nhiên, từ 2021, khi Bộ luật Lao động 2019 có hiệu lực, nếu thuộc một trong các trường hợp dưới đây, người lao động không phải báo trước khi nghỉ việc:
- Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận;
- Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn;
- Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;
- Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc khi có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi;
- Đủ tuổi nghỉ hưu;
- Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực về công việc, địa điểm, điều kiện, thời giờ, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn, vệ sinh lao động, tiền lương, hình thức trả lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp… làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động;
- Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc.
Về thời gian báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động: - Ít nhất 45 ngày: Nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn;
- ít nhất 30 ngày: Nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 - 36 tháng;
- ít nhất 3 ngày: Nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng;
- Theo quy định của Chính phủ: Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù.