Cho nên chẳng có gì ngạc nhiên khi mới đây, UNESCO khuyến nghị chính quyền Thừa Thiên-Huế và Việt Nam nên lập hồ sơ để trình xét công nhận sông Hương và cảnh quan đôi bờ là Di sản văn hoá thế giới (lần thứ hai), với tư cách là nhân tố không thể thiếu trong quá trình hình thành và phát triển của quần thể di tích cố đô Huế.
Xung quanh chuyện này, người Huế, những người yêu Huế, yêu sông Hương đã mừng, đã thất vọng và rồi lại chờ đợi với những tia hi vọng le lói bởi kiểu hành xử “dùng dằng” của chính quyền sở tại. Sự chậm rãi khó hiểu này khiến người ta liên tưởng đến điều tâm đắc của cố nhà nghiên cứu văn hoá Hồ Tấn Phan: “Sông Hương đã có ảnh hưởng rất lớn đến tính cách và hành xử của người Huế… ”.
Nhớ dạo lang thang thăm di tích Huế trên những chuyến đò dọc khi hoàng hôn phủ xuống dòng Hương một màu vàng tan để thực địa tìm tư liệu cho một tiểu luận về Huế, về sông Hương, Tâm - một người nữ sinh viên cao học chuyên ngành Văn hoá còn rất trẻ, đã làm tôi giật mình khi nhận xét rất… giống các nhà nghiên cứu: “Nếu không có dòng sông này làm phông, chắc chắn các lăng mộ và công trình văn hoá dọc hai bờ sông mà mấy hôm nay chúng ta đã đi qua như: lăng Minh Mạng, Thiệu Trị, điện Hòn Chén, Văn Miếu, Võ Miếu, chùa Linh Mụ, kinh thành Huế, hệ thống phủ đệ… sẽ mất đi một phần giá trị văn hoá”.“Tang tóc mỉm cười, vui tươi thổn thức” – Tôi cười một mình khi trong đầu chợt hiện dòng nhận xét của một người Pháp khi ông đứng trước Khiêm Lăng (lăng Tự Đức) trong một bài du ký mà tôi tình cờ đọc được. Chỉ có những “người dưng”, hoặc xa xứ mới có được những nhận xét tinh tường về Huế như thế.
Trên đường đi, thỉnh thoảng chúng tôi gặp một vài chiếc thuyền nhỏ của người dân vạn đò neo đậu giữa dòng để lặn tìm cổ vật - đồ gốm, đồng được lưu giữ dưới dòng sông qua hàng ngàn năm. “Đây mới là di sản ác liệt nhất mà sông Hương có được” – ông bạn già Hồ Tấn Phan của tôi, nay đã là thiên cổ - tay run run nói khi cầm trên tay một bình gốm thời văn hoá Sa Huỳnh còn nguyên vẹn mới được vớt lên.
“Ngoài đồ Chăm phổ biến, dưới lòng sông Hương người ta còn tìm thấy các hiện vật mang dấu ấn văn hoá thời Sa Huỳnh và cả tiền Sa Huỳnh, đồ Đại Việt, đồ Tàu (Tống, Nguyên, Minh, Thanh), Nhật… Mỗi hiện vật là một thông điệp, chìa khoá để giải mã các nền văn hoá khác nhau đã từng hiện diện trên vùng đất này”.
Nhìn những hiện vật bị sức mẻ vì người dân trục vớt một cách tuỳ tiện, tôi thấy đau lòng khi bao nhiêu năm nay, ngành Văn hoá Thừa Thiên -Huế, giới khảo cổ học, đã không nghĩ đến việc tổ chức những đợt khai quật khảo cổ học dưới nước có quy mô để tổ chức trưng bày, nghiên cứu. Giờ có nghĩ đến thì hiện vật dưới lòng sông cũng đã cạn, số trục vớt được bao nhiêu năm nay cũng chẳng ai biết được đã đi đâu, về đâu.
Dù không phải là “con” của đức mẹ Thiên Y A Na, nhưng năm nào đến dịp “tháng 7 vía cha, tháng 3 vía mẹ”, tôi đều có mặt trên một chiếc thuyền để qua ngày, qua đêm ở điện Huệ Nam, dưới chân núi Ngọc Trản, để xem “chúng sinh” đi tìm sự an ủi, vỗ về ở một thế giới khác, để sướng cùng với những người dân lao động chân lấm, tay bùn, bỗng chốc hoá mình thành một ông hoàng, bà tiên uy nghi, phi phàm…
Tục truyền rằng, nơi đây một năm hai lần, đức thánh mẫu Thiên Y A Na giáng trần để ban phước cho chúng sinh. Cũng một năm hai lần, dòng Hương lững lờ thường ngày bỗng nhiên “dậy sóng” bởi tiếng trống, kèn, đàn, hát dậy vang, cờ hoa rợp trời từ những con thuyền “khoác áo” ngũ sắc, trang hoàng lộng lẫy, nối đuôi nhau tưởng chừng như bất tận. Nơi Thiên Y A Na giáng trần, từ thời vua Hàm Nghi trở về trước chỉ là một ngôi điện… cấp bốn! Phải đến khi Đồng Khánh lên ngôi vua, tự xưng mình là một vị thần trong nhiều vị thần khác dưới trướng của Thánh Mẫu, điện Huệ Nam mới trở thành Quốc điện.
Năm đó trên thuyền tôi ngoài “những người muôn năm cũ” còn có thêm Tâm. Cô cho biết bạn cô, một sinh viên trường nhạc người Mỹ, đã đến đây, đã tìm thấy sự tương đồng giữa âm nhạc, vũ điệu của hầu đồng với nhạc Rock của người phương Tây ngay từ lần đầu tiên, nhưng sau đó mất gần 6 tháng, sự khác biệt là gì, bạn cô không tài nào lý giải được. Rồi sau một ngày đêm lang thang Tâm cũng tìm được câu trả lời thay cho bạn mình: “Hình như ở đây không phải ai cũng sôi động, ai nhảy cũng vui. Hình như đó là những giây phút lênh đênh hiếm hoi của phận người…”
Vì không “đặt chỗ” trước, và cũng vì quá ồn ào nên thuyền chúng tôi buộc phải thả về phía hạ lưu vắng vẻ thay vì qua đêm dưới chân điện. Đang chiêm bao, bỗng giật mình vì tiếng chuông chùa Linh Mụ từng hồi vang vọng.
Trên đầu là trăng, dưới mạn thuyền là sông nước mang mang, xa xa là lớp lớp sương mờ, buồn như đêm 30 xa xứ. Thế mà cách đây mấy chục năm, nhạc sĩ Văn Cao trong một lần qua đêm trên dòng sông này, đã gọi không gian ấy là cõi “Thiên Thai”.