Ngày ấy, tôi xúc động khi viết tin này. Chỉ là “tin-công-văn” chưa tới trăm chữ nhưng nó chứa nặng tình con người dành cho con thú, và hàm ẩn lời xin lỗi của con người về tác động không tốt đã gây ra với tự nhiên. Nhất là khi sản phẩm tâm hồn này được khơi dẫn từ con người tưởng như vô can mọi lẽ: một phụ nữ Đức ở cách Sơn Trà gần 10.000 km đường hàng không.

13 cầu-cây-xanh được dựng lên bằng cách trồng hai cây đã phát triển đối diện hai bên đường ở những điểm voọc thường xuất hiện. Chọn loài cây tán lớn, có thể “bắc cầu” trên không và cao tối thiểu 5 mét để không ảnh hưởng đến giao thông. Những vị trí có mặt đường rộng, cây không thể khép tán, sẽ được hỗ trợ cầu dây.
Thực ra, Ulrike Streicher đã ôm hồ sơ thiết kế cầu-cây-xanh đến gõ cửa UBND TP Đà Nẵng từ 2008. Ba năm sau dự án được thực hiện. Kể từ đó, mỗi lần vào rừng Sơn Trà, bắt gặp cảnh ngoạn mục voọc ngược xuôi qua cầu để hợp đàn hoặc mở rộng vùng ăn, tôi lại thầm cám ơn người phụ nữ trí tuệ và nhân từ chưa gặp ấy, Ulrike.
Trải qua 10 mùa mưa bão khắc nghiệt, 13 cầu-cây-xanh giờ không còn nguyên vẹn. Một số cầu dây mục nát được thành phố thay mới, số khác chờ kinh phí. Đã xảy ra tình trạng đứt dây khi voọc qua cầu. Không đành lòng nhìn đàn thú yêu quý gặp nạn, những người thích chụp ảnh động vật hoang dã và yêu rừng –như Huỳnh Cư, Nguyễn Hân, Vương Văn Dũng, Nguyễn Hoàng…– đã lặng lẽ gom vật liệu, chung tay sửa chữa.
Theo thời gian, tôi dần nghiệm ra bản thân cánh rừng Sơn Trà và đàn voọc năm màu của nó cũng là nhịp cầu xanh dài rộng đến bất ngờ, được tạo nên bởi chính giá trị và vẻ đẹp riêng có.
Khi còn là nghiên cứu sinh, nữ tiến sĩ Lois K. Lippold đã bị thu hút bởi voọc vá chân nâu, được các nhà khoa học phong “nữ hoàng linh trưởng” (Queen of Primates), loài động vật xinh đẹp chỉ xuất hiện ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Năm 1974 Lois chọn Sơn Trà làm điểm nghiên cứu thực địa. Năm 1991 chính phủ Việt Nam mời Lois trở lại khảo sát loài voọc trên toàn quốc.
Douc Langur Foundation được Lois thành lập năm 2007 tại Mỹ, nhận được sự ủng hộ của các nhà khoa học và nhà tài trợ. Bà cho biết nhiệm vụ của tổ chức này là góp phần bảo vệ loài voọc vá chân nâu và sinh cảnh tự nhiên của chúng tại Sơn Trà, để đảm bảo các thế hệ tương lai sẽ tiếp tục tồn tại ở đây.
Cho đến những ngày này, hoạt động của Douc Langur Foundation đang tiếp tục phát huy hiệu quả. Nhà linh trưởng học Vũ Ngọc Thành (Đại học Quốc gia Hà Nội) với tư cách Giám đốc Douc Langur Foundation tại VN, thực hiện ít nhất năm chuyến khảo sát Sơn Trà mỗi năm. Trong khi hai nhân viên của ông vào rừng quan sát, ghi chép mọi tình huống liên quan đến đàn voọc suốt 365 ngày mỗi năm, và họ sẵn sàng tham gia cứu hộ động vật hoang dã tại Sơn Trà.
Sau Lois K. Lippold 34 năm, anh Larry Ulibarri, cũng người Mỹ, đã đến Sơn Trà, dành nhiều năm ở đây để viết tiểu luận tiến sĩ "The Socioecology of Red-shanked Doucs in Son Tra Nature Reserve, Vietnam" (Xã hội học Voọc vá chân nâu ở Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà, Việt Nam).
Để rồi Sơn Trà làm cầu nối, ”mai mối” Ulrike Streicher cho anh, hai người nên duyên vợ chồng.

Mới đây, 2019, theo chân các tiền bối, cô gái Ý Veronica Pini từ Đại học Turin đã tìm đến Sơn Trà ba tháng, nghiên cứu ngôn ngữ đặc thù của voọc, phục vụ luận văn thạc sĩ ngành “Sự tiến hóa hành vi của động vật và người” (Evolution of Animal and Human Behaviour).
Và, Facebook trở thành phương tiện tuyệt vời cho những nhịp cầu xanh nối Sơn Trà ra thế giới. Như nữ tiến sĩ Lydie Vander Beeken (Bỉ), nhà sáng lập tổ chức Heart For Primates (Yêu thương các loài linh trưởng), trong khi chờ cơ hội thực địa Sơn Trà, mỗi ngày đều thu thập thông tin, hình ảnh mới về đàn voọc vá chân nâu qua Facebook của bạn bè Đà Nẵng, là những tay máy yêu thiên nhiên, yêu “nữ hoàng linh trưởng”. Từ đó, Lydie đã có thể cùng vui buồn theo nỗi vui buồn mang tên Sơn Trà.
Tôi thấy mình biết ơn những nhịp cầu xanh đẹp đẽ, nhân văn như thế.