Giáo án và những chiếc bánh mì
Trong tiết trời chớm đông, thầy Vũ Văn Tùng vẫn đều đặn thức dậy từ 4h sáng, chuẩn bị khoảng 200 chiếc bánh mì, vượt 40km để đến điểm trường TH&THCS Đinh Núp (Gia Lai).
6h sáng, nhân lúc học sinh chưa đến, người thầy 43 tuổi bắt đầu xếp bánh mì cùng một vài chiếc xúc xích vào tủ bánh 0 đồng. Cùng sự hỗ trợ của các giáo viên, 200 chiếc bánh mì đã được chia đều cho các em học sinh dân tộc Ba Na. Nhìn chân các em còn dính đất đỏ, bẻ đôi chiếc bánh mì chia nhau, thầy Tùng càng chắc chắn hơn về quyết định 16 năm bám trường, bám bản của mình.
“16 năm qua, tôi đều công tác tại những điểm trường nằm trong vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Trong suốt quá trình giảng dạy, tôi để ý các em cứ đi học đến nửa buổi là trốn về. Sau khi tìm hiểu, tôi biết rằng buổi sáng các em không ăn sáng, đói quá phải về nhà kiếm củ sắn, củ khoai ăn.
Hoàn cảnh của các em học sinh khiến tôi suy nghĩ rất nhiều và quyết định xây dựng tủ bánh mì 0 đồng cũng như các mô hình trao sinh kế cho học sinh dân tộc thiểu số nơi đây”, thầy Tùng chia sẻ.
Thầy Tùng bắt đầu phát bánh mì miễn phí cho học sinh từ tháng 12.2021, trong đợt dịch COVID-19 khó khăn. Theo đó, mỗi tuần các em học sinh trường TH&THCS Đinh Núp sẽ nhận suất ăn sáng từ tủ bánh mì 0 đồng vào thứ Hai và thứ Sáu. Riêng ngày thứ Tư, thầy Tùng chia sẻ tủ bánh cho một ngôi trường có điều kiện khó khăn khác trong vùng.
Từ vài chục chiếc bánh mì của riêng người thầy, đến nay với sự chung tay của mọi người, xe bánh mì 0 đồng đã đầy ắp 200 chiếc/buổi. Bên cạnh việc hỗ trợ các bữa ăn sáng nhỏ, thầy Tùng cũng xây dựng mô hình trao sinh kế cho học sinh nghèo.
“Từ năm 2021, khi tủ bánh mì còn rất hạn chế, tôi đã gửi tặng một số con dê cho học sinh nuôi để tạo đàn. Sau đó nhiều em nuôi thành công và bắt đầu bán dê để mua bò vì ở đây xây dựng chuồng trại và tìm thức ăn cho bò dễ hơn.
Tính đến nay, tôi đã trao được 7 con dê và 9 con bò cho học sinh, một phần quỹ từ tủ bánh mì 0 đồng cũng đang được sử dụng cho việc nhân giống dê và bò”, thầy Tùng nói.
“Thầy ơi, đừng bỏ chúng em”
Từng có cơ hội chuyển công tác về vùng thuận lợi và gần nhà hơn, song chỉ vì một câu nói của các em học sinh, thầy Tùng đã quyết định tiếp tục bám trường, bám bản.
“Khi nhận được thông báo có thể xin chuyển trường, tôi đã viết hồ sơ và để trên bàn giáo viên, nhưng vô tình học sinh lại xem được. Khi quay trở lại lớp, các em ùa lên cầm tay tôi và nói: ‘Thầy ơi, thầy đừng bỏ chúng em’. Vì thế tôi đã gấp tập hồ sơ lại và tiếp tục gắn bó với các em học sinh dân tộc Ba Na cho đến ngày hôm nay”, người thầy 43 tuổi chia sẻ.
Đối với thầy Tùng, khó khăn hơn cả vấn đề lo cho các em học sinh đủ ăn mỗi ngày là việc vận động người dân cho con em đi học. Theo thầy Tùng, những năm đầu công tác tại trường TH&THCS Đinh Núp, các thầy cô phải vượt đèo, vượt suối đến gõ cửa từng nhà, thuyết phục từng phụ huynh cho con nhỏ đi học.
“Vấn đề về kinh tế của của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn là một nút thắt bởi khi mà bụng chưa no, thì con đường đi tìm chữ sẽ vô cùng khó khăn. Ngoài việc đi học, các em vẫn phải mưu sinh cùng gia đình, nhiều phụ huynh không muốn cho con đi học vì đi học không có tiền”, thầy Tùng nói.
Sau những dự án vận động học sinh đi học từ thầy cô cũng như các chính sách giáo dục mới, thầy Tùng đã chứng kiến những sự thay đổi đáng kể trong suy nghĩ của người dân và học sinh dân tộc thiểu số. Từ con số 0, trường TH&THCS Đinh Núp đã có 370 học sinh, trong đó gần 100% là học sinh dân tộc Ba Na.
16 năm gắn bó với các điểm trường khó khăn, trong mắt thầy Tùng, các em học sinh vùng cao luôn có sự hồn nhiên và ham học. Đó cũng chính là lý do mà người thầy 43 tuổi vẫn ngày ngày vượt 40 km đến trường, sau lưng là giáo án cùng những ổ bánh mì miễn phí.