Đầu năm mới xin lộc "cá Ông"
"Năm nào cũng vậy, sau ngày mùng 1, mùng 2 đi chúc Tết, thăm hỏi họ hàng nội ngoại, đến chiều Mùng 3, cả gia đình tôi lại bắt đò qua sông Hồng để qua Đền Bà (tức Đền Cửa Lân - PV) để lễ đền, thắp hương cầu bình an, tài lộc, mưa thuận gió hòa cho một năm phía trước. Với những người quanh năm làm nghề đánh bắt trên biển như chúng tôi thì việc đi lễ Đền Bà vào những ngày đầu năm mới và mỗi dịp đền tổ chức lễ hội đã thành truyền thống, không thể thiếu", chị Hằng (42 tuổi, trú huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định) chia sẻ.
Theo thông lệ từ lâu, mỗi dịp đầu năm mới Âm lịch đều có hàng nghìn lượt người dân thuộc một số xã ven biển huyện Giao Thủy (tỉnh Nam Định) như Giao Hương, Giao Thiện, Giao Xuân, Hồng Thuận, Giao Hải... đã đi đò qua bến đò Giao Hương (thường gọi đò Ông Già, thuộc địa phận xã Giao Hương, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định) để sang bến đò Nam Hồng (thường gọi đò Bồng He, thuộc địa phận xã Nam Hồng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình).
Không chỉ người dân làm nghề chài lưới, trên sông biển ở Nam Định, người dân thuộc các xã khu Nam của huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình cũng thường ghé Đền Cửa Lân vào những ngày đầu tiên của một năm mới để cầu mong bình an, may mắn.
Anh Phúc (38 tuổi, trú xã Nam Hồng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình) cho biết: "Dù đi làm ăn ở xa, không làm nghề biển nhưng năm nào tôi cũng tranh thủ sắp xếp thời gian ra viếng Đền Bà, cầu tài lộc, bình yên cho cả năm. Nằm ở ven đê biển, ngôi đền luôn giữ vẻ trầm lắng, yên bình, do đó mỗi khi tìm về đây, bản thân tôi và gia đình luôn cảm thấy rất dễ chịu, thoải mái, yên ả".
Từ bến đò Bồng He, người dân di chuyển men theo đường đê biển số 5 khoảng gần 8 km nữa qua các xã Nam Hồng, Nam Hưng, Nam Phú, Nam Thịnh, Nam Cường của huyện Tiền Hải để về thăm viếng, cầu tài lộc, bình an tại Đền Cửa Lân (còn gọi là Đền Cửa, Đền Bà) ở chân đê xã Đông Minh.
Xây dựng lầu thờ "cá Ông" khang trang, bề thế hơn
Tương truyền, Đền Cửa Lân được xây dựng vào thế kỷ 19, khoảng năm 1835, sau khi Doanh Điền Sứ Nguyễn Công Trứ mở mang bờ cõi, quai đê lấn biển khai sinh ra đất Tiền Châu xưa (nay là huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình).
Khu vực nhà đền xưa kia còn gọi là Cồn Tiên, nơi neo đậu tàu thuyền đánh cá của nhân dân nhiều địa phương đến lập ấp khai hoang. Đền thờ “Tứ Vị Thánh Mẫu Quốc Gia Nam Hải” (theo Đại Việt sử ký toàn thư kỷ nhà Trần). Năm 1311, vua Trần Anh Tông đi đánh giặc Chiêm Thành, đêm nghỉ ở Càn Hải chiêm bao thấy 4 vị thần nữ phù hộ, sau đó quả nhiên đánh thắng trận, nhà vua quyết định cho lập đền thờ.
Năm 1426, Lê Lợi phái 3 đạo quân ra Bắc đánh quân Minh, đến cửa Càn Hải lập đàn tế lễ rồi xuất quân, vào chiến dịch Chi Lăng, Xương Giang. Sau khi đánh thắng quân Minh, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế lập ra nhà Hậu Lê vào năm 1427. Lúc khao thưởng ba quân tướng sĩ, nhà vua cho sưu tầm thần tích và được biết đó chính là đền thờ Tứ Vị Hồng Lương (Hoàng Hậu, công chúa Mai Nương, Hạnh Nương và Thị Nữ) giữ trọn đạo nghĩa trung thần với triều đình, đã tự vẫn ngoài Biển Đông, dạt vào bờ và được nhân dân trong vùng chôn cất.
Tứ Vị Thần Nữ đã có công âm phù giúp vua Trần Anh Tông, Lê Lợi đánh thắng ngoại xâm, do đó các vua đều ban sắc phong, cho cai quản 12 cửa sông vùng ven biển Bắc Trung Bộ, lập đền thờ chu đáo, cẩn thận.
Từ năm 1940 đến năm 1952, Đền Cửa Lân là căn cứ cách mạng chống càn thực dân Pháp, đến nay khu đền đã được công nhận là Khu di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Đặc biệt, trong khuôn viên Đền Cửa Lân còn có ngôi mộ thờ một con cá voi lớn (dân bản địa trân trọng gọi là cá Ông) - được coi là vị thần hộ mệnh giúp ngư dân thoát nạn trên biển mỗi khi gặp bão tố hay sóng to gió lớn. Cá Ông sau khi chết trôi dạt vào cửa biển trước đền, được nhân dân trong vùng chôn cất và thờ cúng.
Hàng năm, từ ngày 10 - 12.3 Âm lịch, Đền Cửa Lân lại mở Lễ hội chính với các nghi thức rước nước, hầu bóng, hát văn. Những năm gần đây, không gian hội ngày một mở rộng, các giá đồng, các đoàn tế từ nhiều nơi tìm về. Các trò trong hội cũng bổ sung thêm như cờ tướng, tổ tôm, chọi gà, cầu leo, hát chèo...