Nhiều moong than cực "khủng"
Như Lao Động đã thông tin, để hoàn nguyên (san lấp) 2 mong sâu tới 125m, gồm moong vỉa 11 và moong vỉa 4 nằm trên địa bàn phường Hà Tu, TP.Hạ Long, Công ty CP than Núi Béo cần khoảng 30 triệu m3 đất đá thải, với chi ít nhất là khoảng 1.200 tỉ đồng. Đấy là chi phí được xây dựng trước đó, còn nay, với giá xăng dầu tăng mạnh, chi phí dự kiến lên tới 1.600 tỉ đồng.
Cũng tại TP.Hạ Long, mỏ lộ thiên 917 của Công ty than Hòn Gai tại phường Hà Khánh, TP.Hạ Long dự kiến đóng cửa trong năm nay và buộc phải hoàn nguyên theo giấy DTM của Bộ Tài nguyên – Môi trường. Moong than này rộng hơn moong than của Công ty CP than Núi Béo và cũng sâu hàng trăm mét.
Ông Bùi Khắc Thất – Giám đốc Công ty than Hòn Gai – cho biết, việc hoàn nguyên moong than này cũng mất hàng nghìn tỉ đồng.
“Lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh đã khảo sát moong này và mong muốn giữ lại làm hồ chứa nước ngọt sau này. Tuy nhiên, việc giữ lại hay không thì phải có ý kiến của Bộ TNMT vì DMT cấp như thế nào thì phải thực hiện như thế” – ông Thất chia sẻ.
Được biết, hầu hết các mỏ khai thác than lộ thiên đều phải hoàn nguyên sau khi khai thác xong. Hiện, tại Hạ Long, ngoài các moong của Công ty CP than Núi Béo, Công ty than Hòn Gai, còn có các moong than của Công ty CP than Hà Tu. Cty này không chỉ có nhiều moong than hơn, mà các moong than đều sâu và rộng, bởi công ty chỉ tập trung khai thác lộ thiên, không khai thác hầm lò. Dự kiến đến năm 2028, công ty này sẽ đóng cửa các mỏ lộ thiên và cũng giải thế công ty vì không khai thác hầm lò.
Các mong than rộng và sâu thì phải nói đến vùng than Cẩm Phả, với các moong than cực lớn của các công ty than: Cao Sơn, Cọc Sáu, Đèo Nai...Trong đó, mỏ than lộ thiên than Cọc 6 là mỏ than lộ thiên sâu nhất cả nước hiện nay, sâu hơn 300m.
Vì thế, theo tính toán, việc hoàn nguyên các mỏ than lộ thiên trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh sẽ cực kỳ tốn kém; chưa kể sẽ gây ra những hệ lụy khác do cơ bản phải đào xúc đất đá ở các bãi thải mỏ gần đó – vốn đã ổn định về mặt địa chất, thậm chỉ được phủ cây xanh.
Xin giữ lại để làm hồ chứa nước - nhất cử, lưỡng tiện
Tại hội nghị đối thoại giữa các doanh nghiệp với lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh mới đây, ông Phạm Xuân Thủy – Phó Tổng Giám đốc TKV – kiến nghị tỉnh Quảng Ninh và Bộ TNMT cho giữ lại các moong than sau khi đóng cửa mỏ, thay vì phải hoàn nguyên.
Việc này vừa tiết kiệm cho ngành than một nguồn kinh phí rất lớn, vừa có thể tận dụng các moong than để làm hồ chứa nước sạch sau này.
Chủ trương về “kinh tế tuần hoàn” đã được Quảng Ninh và TKV thống nhất cao, trong đó sẽ dùng đất đá thải mỏ để san lấp mặt bằng các dự án và nghiên cứu sử dụng các moong than sau khi đóng cửa mỏ để làm hồ chứa nước ngọt.
Chủ trương này được coi là “nhất cử, lưỡng tiện”. Theo đó, nếu không phải hoàn nguyên thì sẽ không phải đào bóc các bãi thải hiện nay – vốn đã dần ổn định về mặt địa chất và sau này có thể xây dựng thành các khu đô thị; các moong than sẽ trở thành các hồ cảnh quan và trữ nước.
Vấn đề là, theo giới chuyên môn, nếu được chấp thuận không phải hoàn nguyên để biến các moong than thành các hồ chứa nước, sẽ phải kiểm tra lại sự ổn định dưới đáy moong và gia cố lại đáy nếu cần thiết; hoặc có thể san lấp một phần, không để sâu quá khi biến thành hồ chứa nước ngọt.
Bởi khi chứa một khối nước lớn như thế và mỗi khối nước tương ứng với 1 tấn, sẽ tác động nhất định tới các khu vực xung quanh.
Tuy nhiên, việc biến các moong than thành hồ chứa nước ngọt phải có ý kiến của các bộ, ngành Trung ương, trong đó có Bộ TNMT vì hầu hết với các mỏ khai thác lộ thiên, phải hoàn nguyên sau khi đóng cửa mỏ theo giấy phép DTM đã được Bộ TNMT cấp.
Bởi, nếu thay đổi giấy phép DTM sẽ phải tính toàn lại toàn bộ chi phí do khi thiết kế mỏ, các công ty đã tính toán tất cả các loại chi phí, trong đó có chi phí hoàn nguyên, để hoạch toán vào giá than. Nếu giờ không hoàn nguyên nữa thì sẽ phải trừ chi phí san lấp như thế nào, có phải truy thu lại số tiền nằm trong giá bán than hay không?