Theo Khoản 21 Điều 3 Luật Đất đai 2013, tiền sử dụng đất là số tiền mà người sử dụng đất phải trả cho Nhà nước khi được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất.
Nhiều người thường nhầm lẫn giữa tiền sử dụng đất và thuế sử dụng đất. Thực chất đây đều là nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất nhưng khác nhau ở chỗ:
Tiền sử dụng đất là số tiền phải trả cho Nhà nước và chỉ thực hiện khi thuộc một trong ba trường hợp nêu trên (trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp). Còn thuế sử dụng đất là loại thuế gián thu mà người sử dụng đất phải nộp cho Nhà nước hàng năm, bao gồm thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.
Theo đó, Khoản 1 Điều 1 Nghị định 79/2019/NĐ-CP đã liệt kê các hộ gia đình, cá nhân được ghi nợ tiền sử dụng đất trong trường hợp được giao đất tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, bao gồm:
- Người có công với cách mạng.
- Hộ nghèo.
- Hộ gia đình, cá nhân là đồng bào dân tộc thiểu số.
- Hộ gia đình, cá nhân có hộ khẩu thường trú tại địa bàn cấp xã được công nhận là địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn.
Các hộ gia đình, cá nhân ghi nợ được trả nợ dần trong 5 năm kể từ ngày có quyết định giao đất tái định cư của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đồng thời không phải nộp tiền chậm nộp trong 5 năm này.
Nếu sau 5 năm kể từ ngày có quyết định giao đất tái định cư mà hộ gia đình, cá nhân vẫn chưa trả hết nợ thì phải nộp đủ số tiền sử dụng đất còn nợ và tiền chậm nộp tính trên số tiền còn nợ từ thời điểm hết thời hạn 5 năm được ghi nợ tới thời điểm trả nợ.