Đã nhiều năm nay, đều đặn mỗi tháng, bà Bùi Thị Túng (98 tuổi, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình) lại nhờ con cháu đến điểm văn hóa xã để nhận giúp bà tiền trợ cấp xã hội hàng tháng. Đối với bà, đó không chỉ là số tiền được nhà nước trợ cấp hàng tháng mà còn là niềm vui an ủi tuổi già khi đã ở cái tuổi “gần đất, xa trời”.
Sinh ra và lớn lên ở vùng quê nghèo xứ Mường, đến độ tuổi đã xưa nay hiếm, cụ gần như không có bất cứ một khoản tích luỹ nào.
Ở quê, công việc không ổn định, thu nhập thấp, tất cả số tiền kiếm được thời trẻ cụ đã dùng để lo lắng, vun đắp cho các con. Khi tuổi cao, sức yếu, không thể đi làm thêm được việc gì, lại đau ốm triền miên khiến mọi chi phí sinh hoạt đều trông cậy vào con, cháu.
Anh Bùi Long An (cháu bà ) chia sẻ: “Cụ nhà mình đã gần 100 tuổi nên rất yếu, mắt cụ cũng không còn nhìn thấy, nhưng tháng nào cũng chỉ mong đến ngày được nhận trợ cấp”.
Theo anh An cho biết, cụ có 5 người con nhưng các con ai cũng đã có gia đình riêng, hiện cụ sống cùng cháu trai. Dù đã được lo cho đầy đủ, nhưng với cụ, số tiền trợ cấp hàng tháng cũng giảm bớt gánh nặng cho con cháu, ít nhất là tiền thuốc thang mỗi khi trái gió, trở trời.
“Thậm chí số tiền trợ cấp hàng tháng khi chưa dùng đến cụ đã tích góp lại được một khoản nhỏ để sau này lo hậu sự mà không muốn phiền đến con cháu”, anh An nói.
Tương tự, với ông Quách Công Xuân (83 tuổi, Kim Bôi, Hoà Bình), số tiền trợ cấp đã giúp ông có thể giải quyết những khó khăn ở mức sống tối thiểu của người cao tuổi.
Ông Xuân chia sẻ: “Khi chưa đến tuổi nhận tiền trợ cấp, mỗi lần cần mua đồ dùng cá nhân hoặc nhỏ nhất như lọ dầu gió cũng phải xin con cháu.
Từ khi có khoản trợ cấp này, tôi cũng chủ động được nhiều thứ, từ những chi tiêu nhỏ nhất, cũng cảm thấy mình bớt đi cho các con một phần gánh nặng”.
heo thống kê, hiện tỉnh Hoà Bình này có 15.000 người cao tuổi đủ điều kiện hưởng trợ cấp xã hội.
Căn cứ tại Điểm đ Khoản 1 Điều 6 Nghị định 20/2021/NĐ-CP quy định về mức trợ cấp xã hội hàng tháng đối với các đối tượng quy định tại mục 1 như sau:
Đối tượng nêu tại mục 1 được trợ cấp xã hội hàng tháng với mức bằng mức chuẩn trợ giúp xã hội là 360.000 đồng/tháng nhân với hệ số tương ứng quy định như sau:
Hệ số 1,5 đối với đối tượng từ đủ 60 tuổi đến 80 tuổi;
Hệ số 2,0 đối với đối tượng từ đủ 80 tuổi trở lên;
Tuy nhiên, 2 đối tượng nêu trên phải thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng hoặc có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng nhưng người này đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng;
Hệ số 1,0 đối với đối tượng từ đủ 75 tuổi đến 80 tuổi thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo đang sống tại địa bàn các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đặc biệt khó khăn; Người từ đủ 80 tuổi trở lên mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng, trợ cấp xã hội hàng tháng;
Hệ số 3,0 đối với đối tượng người cao tuổi thuộc diện hộ nghèo, không có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, không có điều kiện sống ở cộng đồng, đủ điều kiện tiếp nhận vào cơ sở trợ giúp xã hội nhưng có người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc tại cộng đồng.