Thời phong kiến, các nước trong khu vực như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên... đều phải đối xử với Trung Quốc như nước lớn. Vua ở Trung Quốc được xưng hoàng đế, là chân mạng thiên tử (con trời), còn lại đều chỉ được coi là vương.
Ở Việt Nam, vị vua nào lên ngôi cũng phải nhận thụ phong “An Nam quốc vương” từ triều đình phong kiến Trung Quốc. Và 4 chữ “An Nam quốc vương” luôn được phía Trung Quốc dùng trong các văn kiện ngoại giao chính thức.
Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Hải Trung – Phó giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế thì “đó chỉ là ứng xử ngoại giao”. Bằng chứng là trong tất cả 191 bài thơ trên điện Thái Hòa, tần suất xuất hiện của chữ vương chỉ 13 lần, trong khi chữ đế (hoàng đế) lại xuất hiện đến 27 lần.
Điều này chứng tỏ thời Nguyễn luôn muốn thoát khỏi sự ảnh hưởng của Trung Quốc để khẳng định sự chủ quyền, độc lập về mọi mặt của mình. Và để làm được điều này, chứng tỏ các vị vua triều Nguyễn đã có bản lĩnh và nội lực văn hóa rất cao.
Ông Nguyễn Phước Hải Trung dẫn chứng thêm về bản lĩnh đối ngoại của triều Nguyễn: Hàn Quốc - một trong những nước đồng văn có chịu ảnh hưởng của Trung Quốc như Việt Nam - thời phong kiến, ấn của vua nước này chỉ được làm bằng hình con rùa - biểu tượng dành cho vương. Trong khi tất cả các ấn của vua Nguyễn đều được làm bằng hình rồng 5 móng - biểu tượng dành cho hoàng đế.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Phước Hải Trung kể năm 2010, khi Bảo tàng Cổ vật cung đình Huế (thuộc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế) phối hợp với Bảo tàng Cố cung quốc gia Hàn Quốc xuất bản chung cuốn sách về cổ vật nhân sự kiện những báu vật của triều Nguyễn được triển lãm, trưng bày ở Hàn Quốc.
Trong sách, toàn bộ những chữ liên quan đến vua đều được phía Hàn Quốc dịch sang tiếng Anh là “king”, nhưng phía Việt Nam không nhất trí. “Chúng tôi yêu cầu phải dịch là “emperor” (hoàng đế) và đã xảy ra những tranh cãi nhỏ.
Tuy nhiên, sau khi chúng tôi trưng ra một số bằng chứng về hai chữ hoàng đế đã được sử dụng từ những bài thơ trên điện Thái Hòa, rồi những ấn hình rồng 5 móng để chứng minh rằng khác với Hàn Quốc, về mặt đối ngoại, các vua Nguyễn xưng là vương, nhưng về đối nội, họ xưng là đế. Có chút ngỡ ngàng, nhưng cuối cùng họ cũng chấp nhận vì bằng chứng quá thuyết phục”.
Trở lại với hệ thống văn tự Hán - Nôm trên quần thể di tích Huế, TS Phan Thanh Hải khẳng định: “Đây được xem là một di sản khổng lồ, dương bản (khác với mộc bản là âm bản) độc nhất vô nhị, các triều đại trước không có, các nước đồng văn trong khu vực như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc... đều không có.
Nếu có chăng thì chỉ là những bài thơ được viết lên biển rồi treo lên di tích, hoặc do một số kẻ sĩ ngẫu hứng phóng bút sau khi công trình đã hoàn thành, chứ không phải là chủ ý ban đầu của những nhà kiến trúc, là một thành tố cấu thành nên di tích như ở Huế. Chính vì vậy, hệ thống văn tự Hán - Nôm này có giá trị rất đặc biệt, tạo nên một trong những phần hồn quan trọng của di tích Huế”.