Qua một năm học, nhiều giáo viên phản ánh trên các phương tiện truyền thông rằng, sách Tiếng Việt lớp 1 - bộ KNTTVCS, NXB Giáo dục Việt Nam (tác giả Bùi Mạnh Hùng làm Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên) có những phạm vi kiến thức khó, nặng, quá tải so với lứa tuổi học sinh.
Thông tin còn cho biết, quyển sách này chứa nhiều “sạn”, từ ngữ ngô nghê, thô thiển. Các bài học chữ, vần, từ rất rườm rà… khiến học sinh 6 tuổi rất khó tiếp thu. Những tưởng rằng, những lỗi này đã được các tác giả rút kinh nghiệm để biên soạn sách cho hoàn chỉnh hơn, thế nhưng, sách Tiếng Việt lớp 2 - bộ KNTTVCS, cũng chi chít “sạn”.
Không viết hoa theo quy định
Sách Tiếng Việt 2 (tập 1), bài “Chú đỗ con” (theo “Truyện kể cho bé Mầm non”), trang 33, đặt các câu hỏi như sau: Cuộc gặp gỡ của đỗ con và cô mưa xuân diễn ra thế nào? Cuộc gặp gỡ của đỗ con và chị gió xuân diễn ra thế nào? Cuộc gặp gỡ của đỗ con và bác mặt trời diễn ra thế nào? Cuối cùng, đỗ con làm gì?
Cần viết hoa các từ: Đỗ Con, Mưa Xuân, Gió Xuân, Mặt Trời vì tác giả sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để gọi tên nhân vật (danh từ chỉ người).
Bài “Em học vẽ” (Phan Thị Diên), trang 58, 59 có hai câu thơ: Vẽ ông trăng trên cao/ Vẽ cả ông mặt trời. Tương tự, phải viết hoa ông Trăng, Mặt Trời (nhân hóa ông Trăng, Mặt Trời là người).
Sách Tiếng Việt 2 (tập 2), bài “Sự tích cây thì là” (Trịnh Mạnh kể), trang 46-47, không viết hoa những từ ngữ và các câu sau là sai quy định: trái đất (Trái Đất - hành tinh); Về sau, trời chỉ nói vắn tắt (Trời - nhân vật); Thưa trời, khi nấu canh riêu cá hoặc làm chả cá, chả mực mà không có con thì mất ngon ạ (Trời - nhân vật).
Bài Tạm biệt cánh cam (Minh Đăng), trang 64, viết hoa nhân vật Bống nhưng viết thường nhân vật cánh cam (Chú cánh cam đi lạc vào nhà Bống. Viết đúng: Chú Cánh Cam…).
Phần Luyện tập, trang 66, không viết hoa các danh từ sử dụng lối nói nhân hóa: Anh dế, cô đom đóm (viết đúng: anh Dế, cô Đom Đóm).
Bài “Cảm ơn anh hà mã”, trang 84, cũng không viết hoa tên con vật theo lối nói nhân hóa: cô hươu, anh hà mã (viết đúng: cô Hươu, anh Hà Mã).
Bài “Cánh chim báo mùa xuân” (theo Kể chuyện cho bé), trang 140-141, thì viết hoa theo lối nhân hóa (viết đúng): Bốn nàng tiên Xuân, Hạ, Thu, Đông sống trên bốn ngọn núi.
Bài “Từ chú bồ câu đến in-tơ-nét” (Hải Nam) không viết hoa từ in-tơ-nét trong câu: Nhờ có in-tơ-nét bạn cũng có thể nhìn thấy người nói chuyện với mình, dù hai người đang ở cách nhau rất xa (viết đúng: In-tơ-nét).
Phiên âm tên nước ngoài thiếu nhất quán
Bài “Tớ là lê-gô” (Bảo Châu), trang 97-98, phiên âm lê-gô (sử dụng dấu gạch nối). Nhưng bài “Đồ chơi yêu thích”, trang 99, thì viết ô tô (không sử dụng dấu gạch nối). Cần phiên âm thống nhất theo một cách. Với học sinh lớp 2, cần sử dụng dấu gạch nối khi phiên âm tiếng nước ngoài nhằm giúp các em dễ đọc từ.
Diễn đạt lủng củng, tối nghĩa
Sách Tiếng Việt 2 (tập 1), bài “Cây xấu hổ” (theo Trần Hoài Dương), trang 31, mở đầu viết: Bỗng dưng, gió ào ào nổi lên. Muốn diễn đạt ý bỗng dưng (bất ngờ) thì trước đó phải có chủ ngữ nói đến đến điều “bình thường”. Ví dụ: Trời đang nắng, bỗng dưng gió ào ào nổi lên.
Phần câu hỏi trang 41 yêu cầu học sinh: Nói câu thể hiện tình cảm của em đối với thầy cô giáo của mình. Cách diễn đạt thế này là lủng củng, đây là văn nói chứ không phải văn viết. Cần viết lại cho rõ ràng, mạch lạc, trong sáng, chẳng hạn: Em hãy nói một câu bày tỏ tình cảm của mình dành cho thầy cô giáo.
Sách Tiếng Việt 2 (tập 2), bài “Mùa vàng”, trang 27, có câu văn: Nhưng để có cái thu hoạch, trước đó người nông dân phải làm rất nhiều việc. Câu văn này lủng củng, tối nghĩa. Có thể viết lại câu văn như sau: Người nông dân phải trải qua nhiều công đoạn thì mới thu về thành quả lao động.
Bài “Cảm ơn họa mi”, trang 41, viết: Vật gì có ở vương quốc khiến nhà vua tự hào nhất? Điều gì xảy ra với món quà nhà vua được tặng? Hai câu văn này vừa lủng củng vừa rối rắm về ngữ nghĩa. Cần viết lại: Nhà vua tự hào về vật gì ở vương quốc mình nhất? Sau khi nhà vua được tặng quà thì điều gì xảy ra?
Phần Nói và nghe (bài “Hạt giống nhỏ”), trang 56, đặt câu hỏi: Bằng cách nào mong muốn của cây được thực hiện? Đây không phải là cách diễn đạt của người Việt mà là lối nói của người nước ngoài học tiếng Việt, cần thay bằng câu khác cho rõ ràng, trong sáng.
Phần “Nói và nghe” trang 63, yêu cầu: Nói tên các việc làm trong tranh cũng không ổn về cách diễn đạt. Theo đó, 4 bức tranh miêu tả cảnh làm việc của con người, cho nên cần thay đổi câu hỏi cho rõ ràng, phù hợp với ngữ cảnh.
Qua bài viết, rất mong các tác giả sách Tiếng Việt 2, bộ KNTTVCS, hãy rà soát lại những sai sót như đã phân tích để chỉnh sửa lại cho đúng.