Người ta gọi chị là bà Sáu Trầu nhưng chúng tôi vẫn gọi chị với cái tên đơn giản hơn: Chị Sáu (tên thật là Đào Thị Biểu). Chúng tôi thời ấy cùng trong ban chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam. Chị còn là đại biểu Quốc hội. Năm ấy việc làm của chị ở Quốc hội biến thành tiếng đồn lừng lẫy làm cho các cuộc họp Ban chấp hành chúng tôi sôi nổi hẳn lên. Đồn rằng khi được mời lên phát biểu ý kiến, chị đã không đọc bài được duyệt và nộp trước tại Ban Thư ký của Quốc hội, mà rút từ túi áo bà ba một bài khác và đọc, nói lên tiếng nói của nhân dân Cửu Long không đồng tình với cuộc “cải cách” Giá Lương Tiền đang làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng, đó là một sự thật mà không ai dám nói lên. Bài nói đã được cả phòng họp vỗ tay rần rần hưởng ứng. Nhưng hiện tượng đó không được phản ánh đầy đủ và sinh động trên báo chí đương thời mà chỉ biến thành tiếng đồn vang xa. Còn riêng trong ban chấp hành công đoàn chúng tôi thì khỏi phải nói, bà chị lúc ấy đang là Thư ký Liên hiệp Công đoàn tỉnh Cửu Long, trở thành một nhân vật tiêu biểu. Nhưng “nhân vật tiêu biểu” hiện lên trước mắt chúng tôi bao giờ cũng là một bà “nhà quê” Nam Bộ, mặc áo bà ba, tay thường cầm túi trầu, trong có nào là ống vôi, lá trầu, nào là khúc vỏ với những cánh trầu têm sẵn, cùng một con dao têm trầu. Tôi năm ấy tham gia Ban chấp hành TCĐVN với tư cách là một Phó tổng biên tập Báo Lao Động, lân la tìm đến chị làm quen, cốt hỏi cho rõ cái sự thật bên trong những lời đồn đại, bởi vì tiếng đồn thì bao giờ cũng thêm mắm thêm muối. Và câu chuyện của bà chị đã trở thành một bài học đối với tôi. Bài học ấy là phải nhìn thẳng vào sự thật và dám nói lên sự thật. Chị cho biết người viết bài không phải là chị, lời ăn tiếng nói trong bài là của một người khác bí mật biên soạn (chị không nói tên), tập thể cùng thông qua và chị “chỉ là người xung phong” đọc, dám đọc và dám phát ngôn. Chị không nhận là “phất cờ nương tử”, mà chỉ là người nói tiếng nói của bà con Nam bộ, “người ta bầu mình lên” chứ mình làm sao thò chân lên cái diễn đàn sang trọng ấy. Chính từ những cuộc gặp ấy, đã âm thầm nhen nhóm trong tôi cái ý muốn biến tờ báo của mình thành một diễn đàn nhìn thẳng vào sự thật và nói lên sự thật. Và khi nhận làm Tổng biên tập báo (năm 1985), tôi đã cùng anh chị em biên tập viên, phóng viên, từng bước biến hành động của chị Sáu thành tôn chỉ của tờ báo, cho đến hôm nay. Riêng tôi chỉ mở đầu công việc ấy vài năm, rồi sau được “đôn” lên cấp cao hơn, nhưng sự thật là mất hẳn trong tay một “con dao têm trầu”. Tuy vậy, tình chị em giữa chúng tôi còn nguyên, lần nào về họp Ban Chấp hành chị vẫn gói riêng một quả xoài dành cho tôi. Trong một lần về Vĩnh Long, mọi người giúp tôi ghé vào xóm nhỏ thăm bà chị, tôi đã đứng rất lâu dưới gốc xoài nhà, gốc xoài bao giờ cũng dành cho tôi một quả, mỗi lần họp chấp hành.
Năm nay nhân được ngắm hình trên báo, tôi dùng quả chuông cảm xạ soi lên ảnh chị Sáu, bốc một quẻ cảm xạ dịch học, thấy hiện lên quẻ Sơn Phong Cổ. Trời ơi! Đây chính là bài học chị đã dạy tôi năm xưa. Cổ là Công việc, lại có nghĩa là Đổ nát, bê bối. Tượng quẻ trên là Núi (sơn), dưới là Gió (phong), gió đụng núi, quặt lại, gây đổ nát, vì vậy phải sửa sang sự đổ nát. Lời quẻ bảo rằng: Đổ nát mà làm lại mới thì rất tốt, vượt qua sông lớn thì lợi. Ba ngày trước ngày Giáp, ba ngày sau ngày Giáp. Ý người xưa nói đổ nát mà làm lại thì rất nên, rất tốt (Cổ: Nguyên Hanh); phải xông pha nguy hiểm (như vượt sông lớn), nhưng rồi sẽ có lợi. Muốn sửa sang lại sự đổ nát, quẻ Cổ dạy phải suy nghĩ, có kế hoạch trước sau, tính trước ngày Giáp ba ngày, sau ngày Giáp ba ngày. Làm lại mới mà được như vậy thì rất tốt. Phan Bội Châu bình luận thêm rằng: Thời Cổ là thời Đổ nát, rất xấu mà Lời Kinh lại cho hai chữ Nguyên Hanh là vì sao? Xưa nay, người đời không lo việc đại loạn mà lo không người dẹp loạn, không lo cảnh hiểm mà chỉ lo không có tài vượt hiểm. Nếu những người trì cổ (sửa sang sự đổ nát) đó có gan lớn, có tài cao lại có tấm lòng, có trí lo liệu, thì thời loạn chính là đường mở ra cuộc sửa đổi, cảnh hiểm chính là lối đưa đến hoà bình. Lời Quẻ bảo qua sông lớn có lợi, lại dạy cách lo trước ba ngày, lo sau ba ngày Giáp, thật chẳng sót tí gì. Nếu chỉ có tài qua sông lớn, mà không có kế hoạch lo trước ba ngày, lo sau ba ngày Giáp, hoặc có kế hoạch lo trước, lo sau mà không có gan vượt sông, thì đều không phải là tài sửa sang đổ nát. Cổ làm gì mà nguyên hanh được. Những ý tứ “bác học” đó, với lối nói trầu cau dân dã, là những gì chị Sáu vẫn thường nói với tôi những khi cho tôi quả xoài vườn nhà.