Tác động không cân bằng
Giáo sư trợ lý Vellore Arthi, Đại học California, Irvine, Mỹ cho hay, kinh tế trở lại đúng nhịp độ sau một năm trì trệ mang lại cảm giác nhẹ nhõm “nhưng rất nhiều tác động mà chúng ta thấy trong lịch sử thường kéo dài trong nhiều thập kỷ và không dễ giải quyết”.
Sụt giảm GDP năm 2020 là mức sụt giảm lớn nhất kể từ Đại suy thoái. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) ước tính, điều này gây tổn thất tương đương với công việc toàn thời gian của 255 triệu người. Các nhà nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Pew cho rằng, tầng lớp trung lưu toàn cầu lần đầu tiên thu hẹp kể từ những năm 1990.
Các tổn thất giảm không đồng đều. Đánh giá của Oxford Economics cho rằng Philippines, Peru, Colombia và Tây Ban Nha là những nền kinh tế dễ bị tổn thương nhất bởi những tác động dài hạn. Australia, Nhật Bản, Na Uy, Đức và Thụy Sĩ được xem là những nước sẽ có vị thế tốt nhất.
Tiến sĩ Carmen Reinhart - nhà kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (WB) - cho biết: “Để trở lại tiêu chuẩn trước đại dịch COVID-19 sẽ mất nhiều thời gian. Hậu quả của COVID-19 chưa đảo ngược với nhiều quốc gia. Nó còn rất xa”.
Không phải tất cả các quốc gia trên toàn cầu bị ảnh hưởng như nhau. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) chỉ ra, trong năm nay và các năm sau, những nền kinh tế tiên tiến ít bị ảnh hưởng hơn so với các nước có thu nhập thấp và các thị trường mới nổi. Trái ngược với cuộc khủng hoảng năm 2009, khi các quốc gia giàu có bị ảnh hưởng nặng nề hơn. GDP của Mỹ trong năm sau thậm chí còn được dự báo lớn hơn trước COVID-19, được thúc đẩy nhờ hàng nghìn tỉ USD gói kích thích.
Trong báo cáo tháng 1, Ngân hàng Thế giới cảnh báo về “một thập kỷ tăng trưởng toàn cầu gây thất vọng” trừ khi có hành động khắc phục. Các chuyên gia, trong đó có Giáo sư Arthi, nói rằng, không nhất thiết có một thập kỷ tổn thất nếu có các bước đi đúng đắn, đặc biệt trong đào tạo lại lao động... Biện pháp giải quyết gồm các chính sách khuyến khích nhằm tạo động lực cho doanh nghiệp đổi mới và đầu tư, đặc biệt là trong vấn đề biến đổi khí hậu. Các ngân hàng trung ương và hầu hết các chính phủ đã ra tín hiệu cho biết sẽ tiếp tục duy trì các biện pháp kích thích.
Chính sách phù hợp có thể thúc đẩy sự phục hồi hoàn toàn, theo Tiến sĩ Catherine Mann, nhà kinh tế trưởng tại Citigroup. “Đổi mới hỗ trợ tăng năng suất cao hơn và đầu tư mới nâng cao mức sống. Chìa khóa cũng là các chiến lược để giữ và đào tạo người lao động để tận dụng các cơ hội năng suất cao hơn” - bà nói.
Những thay đổi lâu dài
Theo McKinsey & Co., hơn 100 triệu người ở 8 trong số những nền kinh tế lớn nhất thế giới có thể cần phải chuyển đổi nghề nghiệp vào năm 2030. Những người bị ảnh hưởng nhiều nhất là những lao động trình độ thấp, phụ nữ, dân tộc thiểu số và thanh niên. Những người không làm việc càng lâu thì các kỹ năng của họ càng bị hao mòn.
Ông Eric Robertsen, trưởng bộ phận nghiên cứu toàn cầu của Standard Chartered, cho biết: “Rất nhiều công việc đó đã ra đi vĩnh viễn. Việc làm với mức lương thấp trong các công ty biên hoặc các khu vực biên sẽ không còn nữa do các công ty phá sản hoặc các lĩnh vực này bị rỗng. Nhiều công ty thích ứng hơn sẽ lấp đầy khoảng trống nhưng với ít nhân công hơn”. Ngay cả khi việc làm không bị mất, các mô hình làm việc đã thay đổi và vẫn còn là cuộc tranh luận mở về việc những thay đổi đó sẽ tác động như thế nào đến các gói lương.
Ảnh hưởng lâu dài hơn từ đại dịch COVID-19 cũng sẽ thể hiện rõ ràng với nguồn nhân lực sau khi đại dịch khiến trẻ em và sinh viên không thể đến trường liên tục trong vòng 1 năm ở một số quốc gia. Tháng 9 năm ngoái, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) tính toán, GDP của một quốc gia trong phần còn lại của thế kỷ này có thể bị tác động từ việc học sinh không tới trường trong 1/3 năm học. Trong tương lai, học sinh từ lớp 1-12 hiện nay có thể có mức thu nhập thấp hơn 3% trong suốt cuộc đời. Người nghèo hoặc xuất thân từ các nhóm thiểu số bị ảnh hưởng nặng nề nhất.
Theo Viện Tài chính Quốc tế, cách tài trợ cho sự phục hồi hoàn toàn sẽ rất phức tạp bởi khoản vay thêm 24.000 tỉ USD mà thế giới vay vào năm 2020 nâng tổng số nợ lên mức cao mới là 281.000 tỉ USD. Theo Tiến sĩ Mark Zandi, nhà kinh tế trưởng của Moody’s Analytics, ngay cả khi không có khủng hoảng nợ, một khi lãi suất bắt đầu tăng, cả chính phủ và các công ty sẽ phải chịu sức ép.