Phillips đã mang đến một cuốn cẩm nang hấp dẫn với nội dung đa dạng về các chủ nghĩa cũng như trào lưu nghệ thuật nổi bật đã định hình nghệ thuật hiện đại và đương đại từ thời kỳ bình minh hé sáng của nghệ thuật hiện đại cuối thế kỷ 19 cho đến nay, nhằm giúp bạn đọc làm quen và tiếp cận được một nhánh của dòng chảy lịch sử nghệ thuật.
1. Bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, trường phái Ấn tượng đã mang đến cuộc tranh cãi lớn trong lịch sử nghệ thuật nói chung và cách định nghĩa nghệ thuật nói riêng trong giới nghệ sĩ. Từ đó đến nay, chúng ta đã chứng kiến vô số trào lưu nghệ thuật được hình thành, những trường phái được thực hành, thậm chí cả những chủ nghĩa nhân văn ăn sâu vào đời sống nghệ thuật, văn hóa và tinh thần của giới văn nghệ sĩ nói chung.
Với “...isms”, tác giả đã sắp xếp các nội dung nghệ thuật theo trình tự phát triển của hơn 55 trào lưu và trường phái nghệ thuật, hay còn gọi là "isms". Bắt đầu với trường phái Ấn tượng, Tân Ấn tượng và Chủ nghĩa Tượng trưng, cuốn sách đưa người đọc theo dòng thời gian, khám phá tất cả các phong trào nghệ thuật lớn và nhỏ của thế kỷ XX (Chủ nghĩa Phù phiếm, Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, Chủ nghĩa Vị lai, Chủ nghĩa Dada và Chủ nghĩa Hiện thực Xã hội...) qua thời hậu chiến cho đến thời điểm hiện tại. Được minh họa bởi 110 bản sao chuẩn màu sắc của các tác phẩm tiêu biểu cho các khái niệm quan trọng của từng trào lưu nghệ thuật, cuốn sách giống như một phòng trưng bày ảo của những bậc thầy hàng đầu trong phong trào nghệ thuật hiện đại.
Bên cạnh đó, tác giả cũng bổ sung bảng chú giải thuật ngữ, danh sách những tên tuổi tiêu biểu (nghệ sĩ, nhà sưu tập, nhà bảo trợ nghệ thuật), niên biểu của các trường phái, danh sách các bảo tàng tham quan, tạo nên một cuốn sách nhập môn về nghệ thuật hiện đại dành cho người mới bắt đầu đồng thời cũng là một cách tiếp cận mới hấp dẫn để hình thành khái niệm nghệ thuật hiện đại cho những người đam mê và sưu tập.
Huffington Post nhận xét: “Giống như một lời giới thiệu về một đất nước xa lạ - với lịch sử, thời kỳ và văn hóa của riêng nó. Như một hướng dẫn viên du lịch chỉ ra những điểm nổi bật của một thành phố chưa từng được biết đến trước đây, Phillips đưa chúng ta đi qua những trào lưu lớn và nhỏ của dòng chảy nghệ thuật, bối cảnh hóa chúng thành một lịch sử trải dài từ đầu thế kỷ 19 đến ngày nay”.
2. Trường phái Ấn tượng ra đời vào cuối thế kỷ 19 với một nhóm các nghệ sĩ Pháp dần tiến hành loại bỏ những quy ước truyền thống mà họ được học tại các viện nghệ thuật. Thay vì nhắm đến một sự phác họa khách quan về thế giới, họ lại tập trung vào những nhận thức chủ quan của mình.
Phong cách của họ được đặc trưng bởi những nét vẽ thô và lối thể nghiệm màu sắc, sau đó chúng nhanh chóng lan sang các nước khác. Từ “trường phái Ấn tượng” lần đầu tiên được nhà phê bình Louis Leroy đưa ra trong bài đánh giá về một cuộc triển lãm nhóm mà ông đến dự tại một studio ở Paris vào tháng 4 năm 1874. Ông lấy từ này từ tiêu đề bức tranh “Ấn tượng, Mặt Trời mọc” (Impression, Sunrise, 1873) của họa sĩ Claude Monet. Cái tên này dường như tổng kết lại về nhiều bức tranh đặt trong triển lãm: Phong cảnh thiên nhiên, cảnh quan thành phố và những chân dung hiện ra như những bức phác thảo nhanh chứ chưa hẳn là các tác phẩm đã hoàn chỉnh.
Các nghệ sĩ tham gia buổi triển lãm này gồm có Paul Cézanne, Edgar Degas, Berthe Morisot, Camille Pissarro, Pierre-Auguste Renoir và Alfred Sisley, với một điểm chung là cảm thức tức thời. Họ tiến hành vẽ các phong cảnh ở ngoài trời (en plein air), qua đó phản ánh những nhận thức tri giác trực tiếp của họ về chính phong cảnh ấy, đồng thời nắm bắt trạng thái rung mờ ngay từ khoảnh khắc đầu tiên họ nhìn thấy các hình khối bên ngoài đang trong chuyển động và bất định. Họ cố gắng thể hiện sự biến hóa của ánh sáng và sử dụng bảng màu chưa qua pha trộn nhằm làm cho các màu được hợp nhất trong mắt người xem. Nếu họ làm việc trong xưởng vẽ, như Degas, thì ấn tượng ban đầu sẽ là một yếu tố được thêm vào, thay vì là một sự tái hiện theo lối hiện thực kiểu cổ điển.
Những kỹ thuật này xung đột sâu sắc với Viện Hàn lâm thành phố, những người chỉ ủng hộ các tác phẩm nghệ thuật, theo phong cách Cổ điển và Phục Hưng, càng tương đồng với thế giới tự nhiên, với các vật thể được tạo thành theo một tỉ lệ và phối cảnh nhất định càng tốt. Đối tượng của những người theo trường phái Ấn tượng cũng chệch hướng rõ rệt với những đề tài lịch sử và phúng dụ được ưa thích bởi Viện Hàn lâm; các tấm toan của họ thường in dấu những hình ảnh ngẫu nhiên đặc trưng của đời sống đương đại. Một sự thay đổi lớn khác nữa là họ đã tự tổ chức các cuộc triển lãm của riêng mình, tách khỏi sự chi phối của Triển lãm Salon của Viện Hàn lâm, đồng thời khuyến khích người khác trưng bày tác phẩm của họ một cách độc lập.
Con đường này đã tạo ra bởi Édouard Manet, một thành viên của nhóm có các tác phẩm hội họa được vẽ một cách không trau chuốt và đầy thách thức đã gây ra một sự xúc phạm lớn vào năm 1860. Nghệ thuật Nhật Bản là một nguồn ảnh hưởng khác đến trường phái này qua việc cung cấp các kỹ thuật bố cục thay thế cho truyền thống phương Tây.
Tương tự, thông qua phương tiện mới của kỹ thuật nhiếp ảnh, các vật thể đôi khi bị phân cắt ở mép toan vẽ như thể được tạo thành qua thấu kính. Và nhà điêu khắc Auguste Rodin là người tiên phong vận dụng sự tức thì [của khoảnh khắc] đó trong tác phẩm ba chiều của mình và đã được tôn vinh ở trên khắp thế giới.
Các biến thể của trường phái Ấn tượng lan truyền đến Mỹ, trong các bức tranh của Mary Cassatt và Winslow Homer, và đến Anh, trong các tác phẩm của Walter Sickert và nghệ sĩ Mỹ lưu trú James Abbott McNeill Whistler.
Tuy nhiên, vào đầu những năm 1880, các nghệ sĩ gốc Pháp đã làm việc độc lập với nhau và đa dạng hóa các kỹ thuật của họ, từ đó dẫn đến các phong trào tiếp theo hoặc phản ứng chống lại hoặc đẩy trường phái Ấn tượng đi xa hơn.
Xin giới thiệu một số tác phẩm điển hình của nghệ thuật hiện đại.