Báo cáo đề dẫn - ông Tiêu Minh Tiên, Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Cà Mau cho biết, hiện nay, trên địa bàn tỉnh có khoảng 70% điểm du lịch sinh thái đang hoạt động dưới hình thức kết hợp giữa mô hình du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng, với mục tiêu hướng khách du lịch đến các hoạt động trải nghiệm thiên nhiên, đặc biệt là cuộc sống của cộng đồng người dân địa phương, đồng thời đảm bảo tính nghiêm ngặt về sự nguyên vẹn của đời sống văn hoá cộng đồng và môi trường.
Tuy nhiên, phần lớn các điểm du lịch sinh thái cộng đồng tại Cà Mau chủ yếu phụ thuộc vào nguồn tài nguyên tự nhiên là hệ sinh thái rừng ngập mặn, kinh doanh hoạt động vận chuyển khách tham quan bằng phương tiện địa phương (đi vỏ lãi ra bãi bồi ngắm cảnh biển), phục vụ trải nghiệm (thu hoạch tôm, soi ba khía, câu cá…) và cung cấp ẩm thực đặc sản địa phương (hàu, cua biển, cá đồng…). Đây là những loại hình dễ bị tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) và thiên tai.
Ngoài ra, các vấn đề của BĐKH như xâm nhập mặn, bão, lũ, hạn hán thất thường… gây hư hại kiến trúc và cảnh quan nhiều công trình di tích lịch sử văn hoá của tỉnh. Hạ tầng và cơ sở vật chất phục vụ hoạt động dịch vụ du lịch (nhà cửa, đường sá, cầu cống, bến tàu…) cũng bị hư hỏng hoặc xuống cấp dưới tác động của sạt lở, xói mòn và thay đổi bất thường về nhiệt độ, độ ẩm. Sạt lở thường xảy ra ở vùng ven sông, cửa biển đe dọa an toàn hoạt động giao thông thuỷ.
Sự tổn thương hệ sinh thái rừng ngập do BĐKH gây ra dẫn đến các điểm du lịch sinh thái cộng đồng có nguy cơ đóng cửa trong tương lai gần do suy giảm nguồn tài nguyên tự nhiên, hộ gia đình hoặc cá nhân buộc phải di tản đến vùng khác và cảnh quan giảm sức hút so với kỳ vọng của du khách.
Hội thảo đã nhận được gần 20 tham luận từ các nhà khoa học, chuyên gia, nhà quản lý, các đơn vị kinh doanh du lịch đóng góp nhiều ý kiến sát thực, phân tích, đánh giá và đề xuất các giải pháp như: Có cơ chế ưu đãi, khuyến khích đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho ngành du lịch; đầu tư các giải pháp phòng chống thiên tai, thích ứng với lũ lụt, hạn hán, sạt lở, nhất là tại các địa phương ven biển, cửa sông; xây dựng kế hoạch ứng phó hoặc định hướng phát triển sản phẩm mới thích ứng BĐKH của ngành du lịch trong không gian thống nhất với các lĩnh vực, ngành nghề khác có liên quan để đảm bảo tính đồng bộ trong triển khai thực hiện; nâng cao nhận thức, hình thành ý thức chủ động ứng phó với BĐKH đối với cộng đồng dân cư, nhất là cư dân vùng ven biển và các đối tượng dễ bị tổn thương như người già, phụ nữ và trẻ em; dự đoán các kịch bản BĐKH và nước biển dâng, tính toán các ảnh hưởng, tác động tiêu cực của BĐKH…