Những quy định bỏ ngỏ
Khoản 3, điều 27 của dự thảo quy định: “Khi thời gian thử việc kết thúc mà NLĐ tiếp tục làm việc cho NSDLĐ, việc thử việc được xem là đạt yêu cầu và NSDLĐ phải ký kết HĐLĐ với NLĐ”. Nội dung này gần như được giữ nguyên như quy định tại khoản 1, điều 29 BLLĐ hiện hành: “Khi việc làm thử đạt yêu cầu, NSDLĐ phải giao kết HĐLĐ với NLĐ”.
Quy định này trong BLLĐ hiện hành đã gây nhiều thiệt thòi cho NLĐ trong thời gian qua vì không có chế tài cho việc NSDLĐ không ký với NLĐ khi thời gian thử việc kết thúc mà NLĐ vẫn làm việc thì phải xử lý làm sao. Thực tế, có rất nhiều trường hợp khi hết hạn thử việc, NSDLĐ vẫn để cho NLĐ làm việc, nhưng không ký HĐLĐ. “Đùng một cái” vài tháng sau, NSDLĐ yêu cầu NLĐ phải chấm dứt làm việc mà không có trách nhiệm gì và NLĐ đành ngậm ngùi chấp nhận thiệt thòi, vì pháp luật không quy định nếu rơi vào trường hợp này thì phải xử lý làm sao, dù thực tế hai bên tiếp tục có quan hệ lao động sau khi đã hết thời hạn thử việc.
NLĐ có kiện ra tòa, tòa cũng khó xử vì chẳng biết căn cứ vào đâu khi luật không có mà HĐLĐ cũng không. Như vậy, cần phải bổ sung chế tài đối với trường hợp NSDLĐ không ký với NLĐ khi thời gian thử việc kết thúc mà NLĐ vẫn làm việc theo hướng hợp đồng thử việc sẽ trở thành HĐLĐ xác định thời hạn 1 hoặc 2 năm, như vậy mới nâng cao trách nhiệm phải ký HĐLĐ của NSDLĐ trong trường hợp này.
Khoản 2, Điều 31 dự thảo quy định về việc nhận lại NLĐ hết thời hạn tạm hoãn thực hiện HĐLĐ như sau: “Trường hợp công việc theo HĐLĐ đã giao kết không còn, hai bên thỏa thuận để NLĐ làm công việc mới phù hợp”. Tuy nhiên, điều này lại không dự kiến đến trường hợp nếu hai bên không thỏa thuận được thì sao, nên có thể sẽ gây ra tranh chấp.
Mâu thuẫn với Bộ luật Tố tụng Dân sự và Luật Bảo hiểm xã hội
Điều 50 của dự thảo quy định về thẩm quyền tuyên bố HĐLĐ vô hiệu gồm Toà án nhân dân, Thanh tra lao động. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 516 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, chỉ có Toà án nhân dân mới có thẩm quyền tuyên bố HĐLĐ vô hiệu. Do đó, dự thảo cần phải bỏ quy định Thanh tra lao động được quyền tuyên bố HĐLĐ vô hiệu cho phù hợp với quy định tại Điều 516 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.
Còn tại Khoản 4, Điều 140 về nghỉ thai sản, dự thảo quy định: “Trước khi hết thời gian nghỉ thai sản theo quy định tại khoản 1 điều này, nếu có nhu cầu, có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe của NLĐ, và được NSDLĐ đồng ý, lao động nữ có thể trở lại làm việc khi đã nghỉ ít nhất được 4 tháng”.
Trong khi đó, Điều 40 Luật BHXH 2014 lại không quy định cần phải “có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe của NLĐ”, lao động nữ có thể đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con sau khi đã nghỉ hưởng chế độ thai sản ít nhất được 4 tháng. Vì vậy, cần có sự thống nhất giữa hai luật này theo hướng nếu giữ theo quy định tại dự thảo thì phải bỏ quy định tại Luật BHXH, còn nếu giữ theo quy định tại Luật BHXH phải bỏ quy định trong dự thảo.