Mỹ hỗ trợ Cảnh sát biển Việt Nam
Tiến sĩ Robert Pope, Giám đốc Bộ phận Giảm thiểu Đe dọa Hợp tác (CTR) thuộc Cơ quan Giảm thiểu Đe dọa Quốc phòng Mỹ (DTRA) vừa có chuyến thăm 4 ngày tại Việt Nam vào cuối tháng 4. Trong cuộc gặp gỡ với báo chí sau chuyến thăm, Tiến sĩ Pope cho biết Mỹ đã bàn giao thêm trung tâm huấn luyện và cơ sở bảo dưỡng tàu cho Cảnh sát biển Việt Nam ở Hải Phòng. Cơ sở này cho phép Cảnh sát biển Việt Nam có thể bảo dưỡng các tàu thuyền lớn hơn, giúp chúng hoạt động trên biển thường xuyên và lâu hơn. "Điều đó sẽ hỗ trợ Việt Nam giám sát các vùng biển của mình để đảm bảo tự do hàng hải và thương mại" - Tiến sĩ Pope nhấn mạnh.
Tiến sĩ Pope cho biết, những gì Cơ quan Giảm thiểu Đe dọa Quốc phòng Mỹ đã và đang làm là hỗ trợ xây dựng 4 cơ sở huấn luyện cho 4 vùng Cảnh sát biển Việt Nam. Tại các cơ sở này, Mỹ cung cấp mô hình mô phỏng thuyền để thuỷ thủ Việt Nam có thể học cách điều khiển, tập lái mà không nhất thiết phải lên tàu. “Mục đích cuối cùng là nâng cao khả năng sử dụng tàu thuyền tốt hơn để phục vụ hoạt động tuần tra, bảo vệ chủ quyền tốt hơn. Chúng ta làm tất cả những công việc này cùng nhau để đảm bảo rằng chúng ta có một Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và mở, Việt Nam bảo vệ chủ quyền và các nguồn tài nguyên ở các vùng biển của mình tốt hơn” - Tiến sĩ Pope cho hay.
Thúc đẩy khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và mở
Tại cùng cuộc gặp với báo giới, Đại tá Thomas M.Stevenson, tuỳ viên quốc phòng Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam, khẳng định Mỹ đang thúc đẩy khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và mở, đảm bảo an ninh, an toàn cho ngư dân trên vùng biển này. Ngoài hợp tác với Cảnh sát biển Việt Nam, Mỹ đã chuyển giao 24 xuồng tuần tra cao tốc Metal Shark, 2 tàu tuần tra lớp Hamilton và đang xem xét chuyển giao tàu thứ 3 cho Việt Nam. Hai tàu tuần tra lớp Hamilton được Mỹ chuyển giao cho Việt Nam năm 2017 và 2021 thông qua Chương trình bán trang bị quốc phòng dư thừa (EDA). Các tàu tuần tra này sau đó được biên chế cho Cảnh sát biển Việt Nam.
Ngoài ra, Mỹ cũng hỗ trợ Việt Nam máy bay không người lái để giúp Cảnh sát biển Việt Nam mở rộng khả năng quan sát trên biển. “Nỗ lực của chúng tôi không chỉ đảm bảo một Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở, có lợi trực tiếp cho Việt Nam không chỉ trong việc đảm bảo dòng chảy tự do thương mại, mà còn cả vùng biển an toàn cho ngư dân hoạt động, từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển, củng cố an ninh chủ quyền. Có thể nói đây thực sự là một cách tiếp cận toàn diện” - Đại tá Stevenson nói.
Tiến sĩ Pope cho hay, Mỹ và Việt Nam chia sẻ quan điểm chung rằng điều quan trọng là phải duy trì trật tự quốc tế dựa trên luật lệ. Bất kỳ bất cứ điều gì đe dọa trật tự quốc tế dựa trên quy tắc đó đều sẽ gây quan ngại cho Mỹ và cộng đồng quốc tế. “Vì vậy, chúng tôi hợp tác với các quốc gia như Việt Nam để cung cấp các công cụ thực thi pháp luật hàng hải, an ninh hàng hải, nâng cao khả năng kiểm soát tài nguyên biển của Việt Nam như một cách giúp giảm thiểu mối đe dọa an ninh hàng hải” - Tiến sĩ Pope khẳng định.
Theo Đại tá Stevenson, Mỹ mong luật pháp quốc tế phải được thực thi và áp dụng công bằng trong khu vực, các nước thịnh vượng nhờ sự bình đẳng này. Mỹ cam kết làm việc để thúc đẩy luật pháp quốc tế, ủng hộ Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS)… Khi nói đến chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là không chỉ nói về an ninh, đối phó với thách thức trong khu vực cùng nhau, mà còn tạo ra cơ hội kinh tế trong khu vực, nâng cao y tế cộng đồng và giao lưu nhân dân.
Tương lai của Việt Nam quan trọng với Mỹ
Đại tá Stevenson cho hay, về nhiều mặt, tương lai của Việt Nam là quan trọng với Mỹ. Mối quan hệ thương mại kinh tế Mỹ-Việt đã phát triển mạnh. Nhiều công ty lớn nhất của Mỹ đều đầu tư vào Việt Nam, coi Việt Nam là một đối tác đáng tin cậy. Các công ty Mỹ tham gia vào nền kinh tế năng lượng, kinh tế số và lĩnh vực công nghệ của Việt Nam. Ở chiều ngược lại, các công ty Việt Nam cũng đã đầu tư vào Mỹ và theo một cách rất thực tế, người dân Mỹ, người lao động Mỹ và tương lai của họ được hưởng lợi từ sự đầu tư của Việt Nam. Do vậy, giúp Việt Nam cải thiện cuộc sống của người dân, giúp Việt Nam giàu mạnh, độc lập và thịnh vượng cũng là lợi ích của Mỹ.
Về vấn đề di sản chiến tranh, Đại tá Stevenson cho biết từ năm 2000, Mỹ đã hợp tác với Việt Nam giải quyết những vấn đề về nhân đạo và khắc phục các di sản chiến tranh. Các hoạt động này bao gồm hoạt động tháo gỡ bom, mìn, vật nổ, tìm kiếm hài cốt các quân nhân mất tích trong chiến tranh, hỗ trợ các nạn nhân chất độc da cam và xử lý ô nhiễm dioxin. Mỹ đã phối hợp với Việt Nam hoàn thành dự án xử lý ô nhiễm dioxin ở sân bay Đà Nẵng và đang tập trung vào sân bay Biên Hoà.