"Bóng ma" lạm phát ở mức kỉ lục
Đối với nhiều nước đang phát triển, lạm phát cao là một nguy cơ thường trực. Lần cuối cùng lạm phát tăng cao như trong năm 2022 ở các nền kinh tế lớn là vào đầu những năm 1980. Ở Mỹ, giá tiêu dùng đang trên đà tăng khoảng 7% vào năm 2022, mức cao nhất trong bốn thập kỉ. Ở Đức, tỉ lệ này ở mức gần 10%, lần lạm phát hai con số đầu tiên kể từ năm 1951.
Các yếu tố phổ biến thúc đẩy lạm phát ở khắp mọi nơi là chi phí nhiên liệu và thực phẩm tăng vọt. Giá của nhiều mặt hàng tiêu dùng đã có xu hướng tăng vào đầu năm 2022 do tác động kéo dài của COVID-19 đối với chuỗi cung ứng. Xung đột Nga-Ukraine vào tháng 2 thậm chí còn khiến tình hình phức tạp hơn. Giá dầu tăng khoảng 30% khi các nước phương Tây đưa ra các lệnh trừng phạt Nga - nhà sản xuất dầu thô lớn. Giá lương thực cũng tăng mạnh do chi phí phân bón và vận chuyển, cũng như việc Nga phong tỏa xuất khẩu ngũ cốc từ Ukraine.
Về mặt kinh tế, điều này tương đương với một cú sốc. Việc tăng giá đột ngột đối với các mặt hàng chủ chốt đã nhanh chóng len lỏi vào cuộc sống hàng ngày của người dân thế giới. Ở Châu Âu - nơi từ lâu đã phụ thuộc vào khí đốt của Nga - hàng triệu người phải vật lộn để đủ khả năng sưởi ấm trong mùa đông. Trên tất cả các khu vực, lương thực và nhiên liệu chiếm trung bình hơn một nửa lạm phát vào năm 2022.
Nếu lạm phát chỉ là một hiện tượng từ phía cung thì đã đủ ảm đạm. Nhưng, sự phát triển đáng lo ngại nhất đối với các ngân hàng trung ương là áp lực đã thấm vào các thành phần “cốt lõi” của chỉ số giá cả - đó là hàng hóa, dịch vụ ngoài thực phẩm và năng lượng dễ bay hơi.
Nhiều quốc gia hiện có thị trường lao động cực kì eo hẹp, một phần là kết quả của làn sóng nghỉ hưu sớm trong thời kì đại dịch. Kết quả kéo theo là các công ty đang trả lương cao hơn để thu hút người lao động, càng làm tăng đà lạm phát.
Ở Mỹ - nơi mà mức tăng lạm phát lõi đặc biệt cao - một nguyên nhân bổ sung cho lạm phát là chính sách kích thích quá mức của FED và cả chính phủ nước này trong giai đoạn đỉnh điểm của COVID-19. Trong phần lớn thời gian của năm 2022, điều đó dẫn đến nhu cầu quá cao, với chi tiêu cá nhân thực tế cao hơn xu hướng trước đại dịch. Đáng chú ý, nền kinh tế lớn có lạm phát thấp nhất là Trung Quốc. Chiến lược “zero-COVID” của đất nước tỉ dân đã đẩy chi tiêu xuống thấp hơn nhiều so với xu hướng trước đại dịch.
Hầu hết ở mọi nơi đều xuất hiện tâm lý lo lắng rằng giá cả tăng sẽ đặt lại kì vọng lạm phát, khiến mọi người yêu cầu được trả lương cao hơn, và như vậy sẽ khiến lạm phát khó loại bỏ hơn nhiều. Lí do đó đã đủ để khiến các ngân hàng trung ương hành động. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) là cơ quan tích cực nhất, tăng lãi suất từ mức sàn 0% vào tháng 3 lên hơn 4%, mức thắt chặt tiền tệ mạnh nhất trong bốn thập kỉ. Các ngân hàng trung ương trên khắp thế giới cũng có hành động tương tự như FED.
Hi vọng nào cho 2023?
Lạm phát năm 2023 là cuộc chiến giữa nguồn cung phục hồi và nhu cầu giảm. Nhiều khả năng, một số yếu tố thúc đẩy lạm phát vào đầu năm 2022 đã bắt đầu giảm dần. Giá hàng tiêu dùng đã giảm khi chuỗi cung ứng trở lại bình thường. Giá dầu đã giảm trở lại mức cách đây một năm, một phần nhờ vào sự phục hồi sản xuất. Chính sách tiền tệ thắt chặt hơn bằng cách bóp nghẹt nhu cầu.
Các lĩnh vực nhạy cảm nhất với lãi suất đang chịu ảnh hưởng nặng nề, thị trường bất động sản ảm đạm. Nếu sự phục hồi của nguồn cung, mà chủ yếu là sự sẵn sàng của những người lao động, đủ lớn và nhanh, các ngân hàng trung ương có thể ngừng thắt chặt trước khi một cuộc suy thoái trầm trọng gõ cửa. Nhưng tại thời điểm này, có vẻ như nhiều khả năng chính tâm lý của người lao động sẽ gây thiệt hại thực sự cho nền kinh tế toàn cầu. Vào năm 2023, nỗi lo về lạm phát có thể nhường chỗ cho nỗi lo về thất nghiệp.