Tro xỉ không là vật liệu gây hại
Theo thống kê, hiện nay Việt Nam có khoảng 30 nhà máy nhiệt điện than đang vận hành, chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc và một số tại khu vực phía nam như: Vĩnh Tân 2, Vĩnh Tân 4, tổ máy 1 của Vĩnh Tân 1; Duyên Hải 1 và 3. Theo, Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV) đến năm 2020, nhiệt điện than với quy mô 25.620MW chiếm 42,7% công suất sẽ cung cấp khoảng 130 tỉ kWh chiếm 49,3% điện năng toàn hệ thống. Dự kiến đến năm 2030, nhiệt điện than có tổng công suất 53.890MW chiếm 42,6% tổng công suất, cấp 304,3 tỉ kWh chiếm 53,2% điện năng toàn hệ thống.
Như vậy, nếu tính khả năng phát điện, tỉ lệ điện năng cung cấp trên tỉ lệ công suất đặt thì nhiệt điện than khoảng 1,15 (2020) đến 1,25 (2030), trong khi đó năng lượng tái tạo là 0,65 (2020) và 0,5 (20-30). “Trên cơ sở phân tích tỉ trọng các dạng nguồn năng lượng điện trong Quy hoạch điện VII, có thể khẳng định nhiệt điện than hiện tại và trong thời gian đến năm 2030 vẫn giữ vai trò chính trong việc đảm bảo cung cấp năng lượng điện cho Hệ thống điện toàn quốc” - vị đại diện này cho hay.
Tuy đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp điện, nhưng trên thực tế việc phát triển các dự án nhiệt điện than đã và đang đối mặt khá nhiều khó khăn, thách thức, điển hình là vấn đề môi trường. Do các nhà máy nhiệt điện đốt than đã gây ô nhiễm môi trường, làm ảnh hưởng đến cuộc sống của dân cư xung quanh nhà máy. Đây là một trong những lý do dẫn đến việc lựa chọn địa điểm đầu tư xây dựng các nhà máy nhiệt điện than ngày càng gặp khó khăn do không nhận được sự ủng hộ của địa phương, người dân nơi dự kiến xây dựng nhà máy.
Theo đại diện Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) khi lập các dự án đều phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường và các giải pháp xử lý tro xỉ, khí thải, chất lỏng... phải tuân thủ quy chuẩn về môi trường mới được phê duyệt. Do đó nếu cho rằng, cứ phát thải là nguy hiểm thì sẽ “cực đoan” đối với nhiệt điện và theo các kết quả thí nghiệm thành phần than, tro xỉ không chứa chất độc hại, tro xỉ là vật liệu xây dựng rất tốt.
Phải đảm bảo an toàn môi trường
Theo Phó Cục trưởng Cục Kỹ thuật An toàn và Môi trường Công nghiệp (Bộ Công Thương) - Phạm Trọng Thự, hiện nay, các quy định pháp luật về đầu tư xây dựng, đảm bảo môi trường đã được ban hành đầy đủ, công nghệ hiện đại và ý thức của nhà đầu tư cũng tốt hơn rất nhiều nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc về quy chế nên lĩnh vực này đến nay vẫn còn chậm phát triển, gây khó khăn cho các nhà máy nhiệt điện cũng như các doanh nghiệp phụ trợ. Lượng tro xỉ tồn dư từ các nhà máy nhiệt điện ngày càng lớn đang ảnh hưởng xấu tới môi trường, cơ bản vẫn đang được xử lý bằng phương pháp chôn lấp. Để đảm bảo môi trường đối với tro xỉ tại các nhà máy nhiệt điện thời gian qua Chính phủ đã đưa ra những chính sách, quy định về xử lý tiêu thụ, giải phóng khỏi bãi xỉ. Theo quy định, việc đầu tư bãi chứa tro, xỉ, thạch cao thải ra của các nhà máy nhiệt điện than với sức chứa tối đa 2 năm đây là thách thức lớn đối với các dự án nhiệt điện than... Theo một số chuyên gia hiện nay, nhiều nhà máy nhiệt điện than vẫn đang vận hành bình thường trong khu vực dân cư như các nhà máy nhiệt điện tại thành phố Uông Bí (Quảng Ninh), Cao Ngạn (Thái Nguyên)… Do đó, nếu có giải pháp làm chủ công nghệ, xử lý và kiểm soát tốt thì sẽ không còn gây tác hại đến môi trường, con người, sinh vật.
Ngoài ra, theo đại diện của TKV hiện các dự án nhiệt điện than có quy mô công suất lớn đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu xếp nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là kể từ khi Chính phủ có chủ trương không cấp bảo lãnh nguồn vốn vay cho các dự án điện. Theo đó, Chính phủ cần có chính sách bảo lãnh nguồn vốn vay ưu đãi nước ngoài cho các dự án nhiệt điện than có quy mô công suất lớn để triển khai các dự án này đảm bảo tính hiệu quả, khả thi; hoàn thiện và hướng dẫn áp dụng các tiêu chuẩn và quy chuẩn đối với việc sử dụng tro, xỉ, thạch cao thải ra từ các nhà máy nhiệt điện than cũng như tính toán chi phí vào giá điện...