Cần chính sách mới phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp
Theo Bộ trưởng Bộ KHĐT Nguyễn Chí Dũng, tình hình dịch bệnh COVID-19 còn diễn biến phức tạp, chưa biết bao giờ kinh tế thế giới mới nối lại các chuỗi sản xuất, cung ứng cũng như các hoạt động du lịch, đi lại, sản xuất... Việt Nam đã khống chế dịch tốt ở giai đoạn đầu và đang phải đối phó với tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp ở giai đoạn 2.
Do vậy, việc nhanh chóng nghiên cứu, đưa ra các giải pháp, chính sách cho giai đoạn hiện nay là rất quan trọng nhằm giảm thiểu thiệt hại, duy trì sản xuất ở mức hợp lý nhất, tranh thủ cơ hội để nhanh chóng khắc phục, phục hồi lại nền kinh tế với thời gian ngắn và chi phí thấp để nhanh chóng khôi phục lại nền kinh tế và giúp Việt Nam phát triển nhanh hơn.
“Các chính sách mới đòi hỏi phải đủ mạnh, phải có hành động đặc biệt để cứu doanh nghiệp và nền kinh tế. Phải nắm chắc được tình hình, biết được mức độ ảnh hưởng của nó như thế nào với nền kinh tế đất nước. Cùng với đó, báo cáo đánh giá tác động cần đầy đủ, toàn diện hơn và sâu hơn về tình hình thế giới, khu vực và trong nước, đặc biệt tách bạch giữa chính sách đã ban hành và chính sách mới. Phải đánh giá được tác động của chính sách đã ban hành đối với cuộc sống, các đối tượng thụ hưởng và đối với nền kinh tế để tiếp tục đề xuất, ban hành những chính sách mới với những giải pháp căn cơ, dài hơi hơn” - Bộ trưởng Bộ KHĐT Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.
Do đó, các bộ, ngành, địa phương và các đơn vị của Bộ KHĐT phải nắm chắc tình hình hoạt động của các doanh nghiệp để có được bức tranh toàn cảnh của từng ngành, lĩnh vực, từ đó xây dựng được các cơ chế, chính sách phù hợp. Đồng thời, phải nghiên cứu, đề xuất các kịch bản tăng trưởng trong bối cảnh hiện nay, để đạt được các mục tiêu của quý III, IV. Theo đó, cần tập trung vào những ngành, lĩnh vực còn dư địa để kích thích phát triển, đạt mục tiêu tăng trưởng cao nhất.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh đến 5 nhóm nguyên tắc trong xây dựng các giải pháp, chính sách mới nhằm kịp thời khắc phục những khó khăn, duy trì sản xuất kinh doanh, bảo đảm ổn định xã hội trong tình hình hiện nay.
Thứ nhất, các giải pháp, chính sách phải bao quát, toàn diện các đối tượng, đủ lớn và đủ mạnh để kích thích nền kinh tế. Thứ hai, các gói chính sách dù lớn hay nhỏ đều phải gắn với cơ cấu các ngành, lĩnh vực, thu hút đầu tư nước ngoài, đổi mới sáng tạo, chuyển dịch dòng vốn đầu tư... Thứ ba, phải đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và đời sống người dân. Thứ tư, tập trung hỗ trợ doanh nghiệp, người dân. Thứ năm, đối với chính sách tài khóa, cần rà soát lại các loại thuế, phí để tiếp tục tạo thanh khoản, dòng tiền cho doanh nghiệp, bảo đảm dễ thực hiện và hiệu quả. Vấn đề phối hợp, phân cấp, phân quyền cũng rất quan trọng, đồng thời phải đánh giá được tác động của các chính sách đến nền kinh tế.
Bài học kinh nghiệm từ thực hiện gói 62.000 tỉ đồng
Trao đổi với PV Lao Động chiều 17.8, chuyên gia kinh tế cấp cao - nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ KHĐT Cao Viết Sinh - nhấn mạnh: Đánh giá lại những điểm được và không được của đợt hỗ trợ thứ nhất, để rút ra kinh nghiệm, thì đến nay gói tín dụng an sinh xã hội đang thực hiện còn nhiều vướng mắc “chưa đâu vào đâu”. Chủ trương thì hay nhưng thực hiện chưa được gì lớn, cần phải đánh giá lại nguyên nhân từ đó mới tiếp tục.
Về chính sách hỗ trợ, thì hỗ trợ DN lớn là “đầu tàu” kéo nền kinh tế đi lên là đúng. Các nước trên thế giới cũng đi theo hướng này. Nhưng DN nhỏ và vừa với nguồn lực yếu hơn cũng rất quan trọng.
“Nói chung là phải hài hòa, bởi khó khăn là khó khăn chung, vấn đề là tìm ra điểm yếu, các “nút thắt” để tháo gỡ. Đối với “gói an dân” 62.000 tỉ đồng, tiền mình có nên vẫn tiếp tục hoàn thiện, trong đó cần tiếp tục xem xét về điều kiện, đối tượng để triển khai chính xác.
Cũng theo ông Cao Viết Sinh, hiện nay tháng 8 đã gần kết thúc, các chính sách không nên thực hiện đến hết tháng 9 (hết quý III - PV) rồi dừng lại bởi các chính sách ban đầu đưa ra theo kịch bản khống chế được COVID-19, nhưng hiện nay dịch bệnh này đang diễn biến phức tạp không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới, nên chính sách hỗ trợ cần phải kéo dài thêm. Đây là hướng cần tính tới, thậm chí phải tính tới phương án khi dịch bệnh kéo dài đến năm 2021 chứ không chỉ trong năm 2020.
Gắn với quá trình hỗ trợ, quan điểm là phải gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt là bên cạnh kế hoạch phát triển kinh tế năm 2021, phải có kế hoạch dài hơi cho giai đoạn 2021-2025 để thực hiện bài bản, thống nhất, hiệu quả.
“Điểm nghẽn” lớn nhất đối với gói 62.000 tỉ đồng là chúng ta đã quá cầu toàn, quá lo lắng rủi ro nên đặt ra điều kiện quá chặt làm cho quá trình thực hiện bị chậm. Tất nhiên với mỗi chính sách đều có “khe hở”, nhưng ở đây chúng ta đã quá sợ rủi ro, sợ trách nhiệm. Trong khi người dân “ốm”, cần tiền thì chúng ta lại ngồi bàn ngược bàn xuôi dẫn đến chậm thực hiện. Nguyên nhân thứ hai là chúng ta không có chính sách đi kèm. “Trong bối cảnh đặc biệt thì chính sách cũng phải đặc biệt và cách làm cũng đặc biệt thì ta chưa có cách làm đặc biệt cho vấn đề đó mà vẫn theo chính sách hiện hành làm cho quá trình triển khai bị chậm trễ” - ông Cao Viết Sinh khẳng định.
Còn theo PGS-TS Nguyễn Thường Lạng (ĐH Kinh tế Quốc dân), cách chính sách hỗ trợ cần thực hiện khẩn trương để tránh sự đi xuống quá nhanh của DN và nền kinh tế. Tuy nhiên, vì việc chống dịch đợt này khác trước, không đóng cửa hoàn toàn mà chỉ cục bộ, nên các hoạt động vẫn tiếp tục duy trì ở phạm vi khoảng 90% nền kinh tế, vì thế cần sự hỗ trợ khoảng 50.000 tỉ đồng.
“Cần rút kinh nghiệm là khẩn trương đánh giá hiệu quả gói trước, thắt ở chỗ nào để tháo nút thắt cho phù hợp. Cần có phần dự phòng theo địa phương, vì có địa phương bị ảnh hưởng nặng có nơi không. Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh... không bị hoặc không chịu ảnh hưởng trực tiếp của COVID trong đợt 2 nên hỗ trợ có thể cân nhắc cụ thể thêm. Sự minh bạch, rõ ràng và đúng địa chỉ là quan trọng hàng đầu” - PGS-TS Nguyễn Thường Lạng nhấn mạnh.
Đẩy mạnh tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp vay vốn
Tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Cơ quan Ngân hàng Trung ương lần thứ XXIV, nhiệm kỳ 2020 - 2025 tổ chức hôm qua (17.8), Ngân hàng Nhà nước khẳng định sẽ tiếp tục tập trung vào các giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế phục hồi trước tác động của dịch COVID-19.
Cụ thể theo Bí thư Ban Cán sự, Thống đốc Lê Minh Hưng, ngành Ngân hàng sẽ thực hiện đồng bộ các công cụ, giải pháp về tiền tệ, tín dụng, tỉ giá, lãi suất, thanh toán để khôi phục nhanh nền kinh tế. Đồng thời tái cấp vốn cho một số chương trình, lĩnh vực, đối tượng ưu tiên đặc biệt trước yêu cầu cấp bách do tác động của dịch COVID-19. Cẩm Văn