Năm 1980, tôi nhập ngũ, mới học lớp 10 xong thi trượt đại học, chiến tranh biên giới, lệnh tổng động viên, già trẻ đi tất.
Quân khu Thủ đô hồi ấy nghèo, không có doanh trại, phải ở nhờ nhà dân, một xóm nhỏ dưới chân núi Tam Đảo. Tôi ở cùng một anh đã cứng tuổi, tốt nghiệp đại học ngoại giao, đang chờ xin việc thì nhập ngũ. Anh ấy mê thơ văn, tối tối sau giờ sinh hoạt, quán triệt các thứ nọ kia, chúng tôi thường ngồi ở đầu hè, hai anh em hút thuốc lào vặt và anh đọc thơ cho tôi nghe, “Bên kia sông Đuống” (Hoàng Cầm), “Mầu tím hoa sim” (Hữu Loan)... tôi biết là từ anh. Giọng anh trầm đục, khàn khàn, “Em ơi buồn làm chi/ Anh đưa em về sông Đuống” hòa cùng tiếng ếch nhái gọi nhau... Đọc xong một đoạn, anh lại rít vê thuốc lào... Lạnh và đói. Tôi không nỡ quên dù đã ngót bốn chục năm.
Năm 1984, tôi xuất ngũ, về nhà thì thấy có mấy hàng xóm mới, trong đó có bác Đặng Đình Hưng. Ngoài giờ học ở trường Sân khấu Điện ảnh thì phần lớn thời gian còn lại, tôi “học” ở nhà cụ Đặng, giúp cụ căng toan, pha mầu, treo tranh (cụ rất mê hội họa), đi mua rượu và thích nhất là được đi đưa đón các “mét” Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm. Những cao nhân mà tôi sớm có may mắn được gặp đều là ở chiếu rượu nhà cụ Đặng: Chiếu 1 là các cụ Nhân văn, các nhạc sĩ Huy Du, Trọng Bằng, Vĩnh Cát, Chu Minh, Hoàng Dương, các họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, nhà phê bình Thái Bá Vân. Chiếu 2 là nhà thơ Thụy Kha, họa sĩ Trịnh Tú, nhà thơ Trần Vũ Mai... Tôi là chiếu bét, ngồi ngoài hành lang chờ được các Vip sai vặt, thông điếu, mở cổng... thế mà học được một núi kiến thức ở đó. Cái sự học kể cũng vô cùng?
Trở lại chuyện đi mời cụ Hoàng Cầm, tôi đã dắt cái xe đạp Thống Nhất ra đến tận đầu ngõ, cụ Đặng còn gọi lại, dặn: “nhớ thuê xích lô khứ hồi như mọi bận”. Nhà cụ Hoàng Cầm ở ngay kế Nhà thờ Lớn, sân nhà thờ thường có nhiều xích lô để đợi khách. Tôi bắt một xe, dẫn về cửa nhà cụ Cầm rồi vào ngõ đưa cụ ra. Tôi đạp trước, cụ Cầm đùa như xe dẫn đoàn, xích lô chở cụ Cầm theo sau.
Tôi đã quen với việc này, đi đón cụ Trần Dần và Lê Đạt cũng vậy. Hồi ấy không ai có điện thoại trừ cụ Hưng nhưng tôi đến nhà ai, cũng gặp. Cụ Dần chân đau ngại xê dịch. Cụ Đạt, loanh quanh ở nhà giúp gia đình trông coi cửa hàng khăn mặt trên phố Lãn Ông, “nhà số lẻ phố trò chơi bỏ ngỏ”. Cho nên điện thoại của cụ Hưng hiếm khi reng reng, tờ giấy danh bạ dán trên tường chỉ có vài số, số bác sĩ Kim, bác sĩ Cồ bệnh viện Lao – Phổi, số của nhà văn Tô Hoài, văn phòng bác Phạm Văn Đồng...
Xích lô kẽo kẹt chừng nửa tiếng thì cũng từ Lý Quốc Sư đến được nhà C4 Giảng Võ. Nhà C4 là căn hộ lắp ghép, xây khoảng cuối những năm 70 thế kỷ trước. Nghe nói là chính phủ tặng cụ Hưng sau khi Đặng Thái Sơn đoạt giải nhất concours Chopin tháng 10.1980. Nhà C4 nay vẫn nguyên, gầy gò ọp ẹp vì xung quanh có nhiều cao ốc lênh khênh, bóng nhoáng nhôm kính. Thỉnh thoảng đi qua đó, tôi vẫn ngước lên tầng 2 nơi tôi đã có nhiều năm gắn bó với cụ Hưng.
Năm ngoái, nhân 30 năm giỗ cụ Hưng, tôi quay lại nhà C4 cùng nhiếp ảnh gia Dương Minh Long, chỉ cho Long chụp cái hành lang, cầu thang, nhiều kỷ niệm năm xưa ập về, tiếng bản lề của cửa sắt, đã bao lần tôi mở/ đóng để đón đưa các cụ... Dương Minh Long thích thú, chụp không tiếc phim cái công tơ điện vẫn ghi tên Đặng Đình Hưng...
Xích lô dừng ở chân cầu thang, trước khi đưa cụ Hoàng Cầm lên, tôi dặn bác xích lô đợi, sẽ trả bác thêm tiền, cứ thế cứ thế. Đúng như tiêu chuẩn của cụ Hưng, “khứ hồi” mà!
Màn đưa đón tạm xong, tôi kê ghế ngồi ngoài hành lang chờ “lệnh” kiểu như mở cổng đón một tửu khách đột xuất nào đó, chạy ra chợ mua thêm ít đồ mồi... Hôm ấy, cuối bữa kiểu “rượu đã đau môi/ men vào đắng phổi/ tiệc tàn xuân vẫn chửa sang cho” tôi giỏng tai nghe cụ Hoàng Cầm đọc thơ và kể chuyện mẹ, một người phụ nữ Kinh Bắc đẹp mê hồn, một liền chị có tiếng...
Cụ kể, bà sinh cụ đêm 12 tháng Giêng trước khi khai hội Lim Quan họ vài giờ... Bài thơ Hoàng Cầm đọc là một bài nhớ mẹ, tôi ngồi ngoài nghe câu được câu chăng nhưng vẫn thấy hay, bèn vào hẳn trong phòng. Khi khách đã về vãn, tôi đánh bạo, chìa tờ giấy và cái bút nhờ cụ Cầm chép lại bài đó. Có lẽ cụ cảm động về cậu bé hay đưa đón mình nên cụ viết ngay. Tên bài là Về mình, sau này khi in sách tôi thấy cụ sửa lại là Về với ta. Cụ Hoàng Cầm trích một khổ của Về với ta làm đề từ cho tập thơ Về Kinh Bắc. “...Ta ru em/lớn lên em đừng tìm mẹ phía cơn mưa” và bài này cũng là bài cuối cùng của Về Kinh Bắc. Về với ta vừa là mở mà cũng là kết cho một bài thơ dài về quê hương Kinh Bắc.
Ta con bê vàng lạc ráng chiều xanh...
Tháng 5.1991, tôi có triển lãm cá nhân lần đầu tiên, tôi đến mời Hoàng Cầm. Tên triển lãm là Đồng dao. Cảm hứng những bức tranh lấy từ những câu hát đồng dao của trẻ con đầy mơ mộng và vô lý, “ông thợ xẻ bú tí mẹ”, “dắt trẻ đi chơi đến ngõ nhà trời”, “cái đanh thổi lửa... Hôm khai mạc, thật bất ngờ, nhà thơ Hoàng Cầm tới, xem tranh xong, cụ viết vào sổ lưu niệm “bác cháu mình cùng đồng dao”.
Năm 2000, tôi chuyển nhà về phố Lý Quốc Sư, thế là hữu duyên, được làm hàng xóm của cụ Hoàng Cầm, bác cháu gần gũi nhau.
Năm 2022, kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của nhà thơ Hoàng Cầm. Gia đình sẽ tái bán tập thơ Về Kinh Bắc, tôi giúp mời 4 họa sĩ Đỗ Dũng, Hoàng Phượng Vỹ, Ngô Bình Nhi và Chu Hồng Tiến vẽ phụ bản màu.
Riêng tôi, tôi rủ mấy người bạn làm một cuốn tinh tuyển, nhà thơ Thụy Kha chọn và biên tập. “Hoàng Cầm trăm bài” như 100 ngọn nến mừng sinh nhật ông. Được gần ông một thời gian, yêu thích thơ ông, tôi sẽ vẽ khoảng hai chục bức tranh mực nho trên giấy dó phết điệp mua ở làng tranh Đông Hồ từ cảm hứng thơ ông.
Nhà thơ Đặng Đình Hưng và nhà thơ Hoàng Cầm đã đi xa, bài Về mình ông chép tặng tôi trên tờ giấy tận dụng không thể ố vàng hơn nữa, nét bút mực không thể bạc hơn nữa. Mấy chục năm rồi!!! Mùa đông năm nay nhiều ngày lạnh hơn, “cây ổi gió xương chống đỡ / mùa đông ập về đánh úp...”.
Nhớ mùa đông năm ấy, nhớ cụ Hoàng Cầm.
Hà Nội 11.2021
VỀ VỚI TA
Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh
đi mãi tìm sim chẳng chín
Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô
gặm cỏ mưa phùn
Gióng giả gọi về đồng sương
đôi ba người lận đận
Đêm nay mẹ chẳng về chuồng
Ta con chào mào khát nước
về vườn xưa hạt nhãn đã đâm mầm
Cây ổi giơ xương
chống đỡ mùa đông sập về
đánh úp
Ta ru em
Lớn lên em đừng tìm mẹ
phía cơn mưa
Ta con phù du ao trời chật chội
đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao
Uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ
vừa rụng chiều nay
dềnh mặt nước hương sen
Ta soi
chỉ còn ta đạp lùi tinh tú
Ngủ say rồi
đôi cá đòng đong.
(Hoàng Cầm - Thơ, NXB Hội Nhà văn, 2011, tr.155 - 156.)