Tết cổ truyền còn được gọi là Xuân Di Lặc
Trao đổi với PV Báo Lao Động, Thượng tọa Thích Nhật Từ - Phó Trưởng Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) cho biết, Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam còn được gọi là Xuân Di Lặc là một tiếp bước văn hóa giữa văn hóa Ấn Độ, văn hóa Trung Quốc và văn hóa Việt Nam.
Theo thượng tọa Thích Nhật Từ, đức phật Di Lặc là một vị Phật đạt được giác ngộ hoàn toàn, giảng dạy Phật Pháp, giáo hóa chúng sinh và chứng ngộ thành Phật. Tượng hình của Phật Di Lặc tại Ấn Độ là một thân tướng nam vạm vỡ hình chữ V, nhưng khi Phật giáo du nhập sang Trung Quốc thì thuyết Trung Hoa xem hòa thượng Bố Đại là thiền sư, sinh ra vào thế kỉ X là hóa thân của đức phật Di Lặc.
"Hòa thượng Bố Đại sinh vào ngày mùng 1 Tết Âm lịch, cho nên từ thế kỉ XI trở đi, sau khi hòa thượng Bố Đại qua đời người ta mới dùng hình tượng của hòa thượng với tướng rất từ bi, bụng rất to, gương mặt rất hoan hỉ, thường vác trên vai của mình là một bao bố trong đó có nhiều quà, tiền để tặng cho người nghèo, nhất là trẻ em. Thông qua tiếp bước văn hóa giữa Ấn Độ và Trung Hoa, thì Phật giáo Việt Nam đã tiếp thu và ngày xuân Âm lịch tại Việt Nam người ta gọi là Xuân Di Lặc".
Thượng tọa Thích Nhật Từ chia sẻ thêm thông tin, tại Nhật Bản bắt đầu từ thế kỉ XIII, XIV, người ta gọi Hòa thượng Bố Đại là “khắc phúc thần”. Có nghĩa là một vị thần linh mang lại 7 phúc báo cho con người, đồng thời tượng hình hòa thượng Bố Đại như là hóa thân của Đức phật Di Lặc giống như là một ông địa, một ông thần tài để mang lại tài lộc, phước báo cho mọi người trong dịp đầu xuân. Truyền thống này trở thành biểu tượng của ban tài lộc, ban phúc báo trong dịp đầu năm cho những người đi chùa và cho tất cả người dân trên quả địa cầu này.
Người Việt Nam gọi xuân Di Lặc từ khi nào?
Theo Thượng tọa Thích Nhật Từ, vì hòa thượng Bố Đại sinh vào thế kỉ thứ X, có một số giả thuyết ngày Xuân Di Lặc ngày mùng 1 Tết bắt đầu từ thế kỉ XI trở đi, một số giả thuyết khác bắt đầu từ thế kỉ XIII, XIV lấy ngày sinh của hòa thượng Bố Đại để làm ngày xuân của phật Di Lặc vào ngày mùng 1 Tết.
"Từ những giả thuyết trên, xuân Di Lặc tại Việt Nam đã trải qua ít nhất là 7 đến 10 thế kỷ. Mừng xuân Di Lặc đã trở nên quen thuộc ở các ngôi chùa Bắc tông của Trung Quốc, sau đó ảnh hưởng đến Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên,... Dù cho xuất xứ của ngày Xuân Di Lặc vẫn còn tranh luận và thời điểm chính xác là thế kỷ nào vẫn chưa thống nhất, tuy nhiên ý nghĩa, biểu tượng của mùa xuân Di Lặc là mua lại hết tất cả nỗi khổ, niềm đau, lo lắng, căng thẳng, bất an, sợ hãi của năm cũ vẫn luôn hiện hữu mỗi khi xuân về" - Thượng tọa Thích Nhật Từ nói.
Thượng tọa Nhật Từ cũng chia sẻ thêm thông tin, thế giới của chúng ta gồm hàng trăm quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Việt Nam đang phải đối diện trước khủng hoảng do đại dịch COVID-19 gây ra. Cầu mong sao vaccine không chỉ được phổ biến ở một số nước tiên tiến như Hoa Kì, vương quốc Anh mà hy vọng trong vòng mấy tháng tới có thể phổ cập ở những quốc gia còn lại để chúng ta khép lại khủng hoảng về kinh tế xã hội, văn hóa, dân sự, pháp lý, giáo dục, tôn giáo... do đại dịch gây nên.
"Niềm vui qua biểu tượng của phật Di Lặc cười thoải mái, cười trong trái tim cười ra, cười từ sự quảng đại bao dung, cười từ rộng lượng tha thứ,... chúng ta nên học những phẩm chất cao quý đó để trải nghiệm niềm vui, hạnh phúc và nụ cười trong năm mới 2021. Tôi cũng mong mọi người hãy xem 12 tháng của năm 2020 là cả 1 năm nhuần, thay vì năm nhuần có 1 tháng để quên đi cái khó khăn đã qua, đồng thời hướng tới tương lai với niềm tin mới, hy vọng mới và nụ cười mới để tạo dựng cho chúng ta một cuộc sống an lành mới" - Thượng tọa Nhật Từ chia sẻ.