Trường hợp duy nhất được “vượt khung” làm thêm tới 300 giờ/năm là Ban quản lý dự án, trong trường hợp giải quyết công việc cấp bách không thể trì hoãn.
Cùng với quy định làm thêm không quá 30 giờ trong 1 tháng và tổng số không quá 200 giờ/năm; Khoản 3, Điều 26 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP ngày 10.5.2013 của Chính phủ còn quy định, các quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và an toàn lao động, vệ sinh lao động được áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức người thuộc lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân, trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến từng đối tượng này có quy định khác.
Về trường hợp “vượt khung”, căn cứ điểm a, khoản 2, Điều 4 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP ngày 10.5.2013, Ban Quản lý dự án có thể được tổ chức làm thêm giờ từ trên 200 giờ - 300 giờ/năm trong trường hợp phải giải quyết công việc cấp bách không thể trì hoãn.
Ngoài ra, khi tổ chức làm thêm giờ từ trên 200 giờ - 300 giờ/năm thì người sử dụng lao động (Ban Quản lý dự án) phải thông bảo bằng văn bản cho Sở Lao động Thương binh & Xã hội địa phương.
Về cách tính tiền lương làm thêm giờ, theo quy định tại khoản 1, Điều 97 Bộ luật Lao động thì người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm như sau:
- Vào ngày thường, ít nhất 150%.
- Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%.
- Vào ngày nghỉ lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày.
Như vậy, theo quy định tại Bộ luật Lao động, khi người lao động làm thêm giờ vào ngày nào thì được trả lương làm thêm tính theo ngày đó. Cách tính tiền lương làm thêm giờ cho người lao động thực hiện theo các nguyên tắc nêu trên, bảo đảm người lao động làm thêm giờ được trả lương tính ít nhất bằng (hoặc có thể cao hơn) các mức tương ứng theo quy định tại Điều 97 Bộ luật Lao động.