Phi logic
Phần “Đọc hiểu”, trích dẫn một đoạn tản văn nghị luận trong sách "Thiện, Ác và Smartphone" của Đặng Hoàng Giang bàn về “lòng trắc ẩn” và “sự thấu cảm”.
Phần 1, tác giả tập trung giải thích khái niệm “sự thấu cảm”; phần 2, tác giả chứng minh những biểu hiện của “sự thấu cảm” để sáng tỏ luận điểm “Lòng trắc ẩn có nguồn gốc từ sự thấu cảm”.
Mệnh đề “Lòng trắc ẩn có nguồn gốc từ sự thấu cảm” cũng đã “có vấn đề”. “Trắc ẩn” là một từ Hán-Việt thuộc loại động từ, Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học giải thích “Trắc ẩn: Thương xót trong lòng”.
Khả năng “thấu cảm” như tác giả diễn giải (hiểu trọn vẹn, khả năng đọc được tâm trí và tâm hồn người khác..) thì các bậc chân tu đắc đạo e cũng khó đạt tới, họa chăng chỉ có thần thánh. Trong khi “Lòng trắc ẩn” thì ai cũng có thể có, kể cả loài vật, kể cả những tên ác bá giết người không run tay cũng có lúc biết động lòng thương xót, cũng có khả năng “đao hạ lưu tình”.
Trong con người, dù là đứa trẻ, cũng có cả mầm thiện và mầm ác. Khi tác giả khẳng định “Lòng trắc ẩn có nguồn gốc từ sự thấu cảm”, dẫu cách nói của tác giả có phần uyển chuyển, thì ai cũng hiểu: nếu không có “sự thấu cảm” thì sẽ khó mà có “lòng trắc ẩn”. Nhận định như vậy là không phù hợp.
Những dẫn chứng mà tác giả viện dẫn và phân tích ở phần 2 là những hành vi thông thường trong cuộc sống. Một đứa trẻ chìa con gấu bông để dỗ một em bé sơ sinh, một cậu bé cổ động viên đội bóng thắng an ủi nỗi thất vọng của một cổ động viên người lớn của đội bóng thua, tuy không phải là những hành vi phổ biến nhưng cũng không phải là trường hợp hy hữu của những người có khả năng thấu cảm mới làm được.
Ngoài sự khập khiễng tri thức trong đoạn văn dẫn liệu, phương pháp ra đề cũng bất ổn. Chúng tôi đồng tình với sự phân tích, nhận định của thầy Trương Minh Đức, giáo viên môn Văn Trường THPT Lê Quý Đôn, TPHCM:
“Đề ra theo kiểu cũ. Như câu Đọc hiểu: sự thấu cảm - các câu hỏi quá dễ để một học sinh trung bình đạt điểm tối đa mà không cần tư duy. Câu 2, học sinh chỉ cần chép lại văn bản. Các câu hỏi còn lại, kể cả phần viết đoạn văn cũng chỉ mang tính một chiều, không có yếu tố kích thích tư duy cá thể.
Câu 4 mặc dù cho học sinh thể hiện quan điểm cá nhân nhưng thực chất ý kiến đã quá rõ ràng. Bài văn nghị luận văn học: thiếu tinh thần của tư duy mới. Dạng đề này đã sử dụng từ nhiều chục năm nay. Học sinh trung bình học theo chủ nghĩa trung bình sẽ đạt điểm trung bình.”
Câu 3 và câu 4 của phần “Đọc hiểu” đã vượt quá yêu cầu “Đọc – hiểu”, “lấn sân” sang “Làm văn”. Đây là điều bất cập, phi logic đã bị phản ánh nhiều, song không được tiếp thu.
“Bật đèn xanh” cho sao chép
Phần “Làm văn”, câu 1 là sự lặp lại nội dung, ý tứ của phần “Đọc - hiểu”. Tác giả Đặng Hoàng Giang đã giải thích, phân tích về “sự thấu cảm”. Nay lại yêu cầu thí sinh bình luận về vấn đề này, thì khả năng sao chép hay bắt chước ngữ liệu là rất cao.
Câu 2 của phần làm văn còn không lường được thực tế bài làm của thí sinh. Bởi khi nêu cảm nhận đoạn thơ, thực chất học sinh đã phân tích, đánh giá suy ngẫm, quan niệm của nhà thơ về đất nước, nên khi bình luận quan niệm của tác giả về đất nước tất không tránh khỏi trùng lặp.