Vai trò của dữ liệu số trong huy động nguồn lực tài chính
Sáng 21.9, Hội thảo - Triển lãm về tài chính số trong quản lý Ngân sách Nhà nước (Vietnam Digital Finance) năm 2023 với chủ đề “Dữ liệu số: Nền tảng phát triển và tài chính số bền vững” do Bộ Tài chính tổ chức diễn ra tại Hà Nội.
Chia sẻ về kết quả đạt được trong việc huy động nguồn lực tài chính quốc gia cho phát triển bền vững dựa trên dữ liệu số tại Hội thảo, bà Nguyễn Thanh Nga - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính cho biết, trong công tác quản lý thuế tính đến tháng 6.2023, hệ thống khai thuế điện tử đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố và 100% chi cục thuế trực thuộc.
Bên cạnh đó, 99,9% doanh nghiệp sử dụng khai, nộp và hoàn thuế điện tử. 100% doanh nghiệp triển khai hoá đơn điện tử, số lượng hoá đơn điện tử cơ quan thuế nhận và xử lý đạt hơn 4,22 tỉ hoá đơn. 21,4 nghìn doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh đăng ký sử dụng hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế khởi tạo từ máy tính tiền.
Trong lĩnh vực hải quan, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính cho biết, dữ liệu thống kê đến tháng 6.2023 cho thấy, dữ liệu số đã kết nối 13/14 bộ, ngành qua cơ chế một cửa quốc gia. Theo đó, có 250 thủ tục hành chính được thực hiện qua Cơ chế một cửa quốc gia, đồng thời có đến 63 nghìn doanh nghiệp tham gia.
"Việc chuyển đổi số, ứng dụng dữ liệu số trong quản lý thuế và hải quan góp phần tăng nguồn thu ngân sách, tạo nguồn lực cho phát triển bền vững.
Trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều tác động từ dịch bệnh, biến động kinh tế chính trị trên thế giới, mặc dù thu ngân sách bị tác động bởi các chính sách để hỗ trợ cho nền kinh tế như chính sách miễn giảm thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất. Tuy vậy, ước tính đến tháng 6.2023, thu ngân sách nhà nước vẫn đạt so với dự toán và quy mô thu ngân sách cho 2021-2022 đạt 19% GDP" - bà Nga nói.
Ngoài những kết quả đạt được, bà Nga đánh giá cơ sở dữ liệu thông tin về thuế vẫn còn một số hạn chế còn tồn đọng như chưa xây dựng và vận hành hiệu quả thông tin.
Bà Nga lấy ví dụ về dữ liệu của hoá đơn điện tử rất lớn, nhưng việc phân tích, đánh giá dữ liệu cho công tác quản lý thuế vẫn còn hạn chế, chưa khai thác được nhiều.
Ngoài ra, cơ sở dữ liệu chưa được kết nối tự động với các bên thứ 3 như các ngân hàng, cơ quan chính phủ, Trung tâm dữ liệu quốc gia để tích hợp, phát hiện đầy đủ các thông tin định danh về đăng ký thuế thu nhập, đưa ra các yêu cầu khai báo đầy đủ.
Cần bổ sung thêm quyền cho cơ quan thuế
Trình bày báo cáo tại hội thảo, ông Đặng Ngọc Minh - Phó Tổng cục trưởng, Tổng cục Thuế cho biết, tính đến hiện tại, dữ liệu hoá đơn điện tử được lưu trữ trên hệ thống thuế đã lên đến hơn 5 tỉ hoá đơn và sẽ tiếp tục gia tăng.
Theo ông Minh, dữ liệu hoá đơn điện tử như mạch máu của nền kinh tế. Dữ liệu này không chỉ có ích trong việc phân tích xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp, mà còn hỗ trợ về mặt vĩ mô, thống kê cho sự phát triển của nền kinh tế.
Để dữ liệu và phân tích dữ liệu có thể phục vụ quản lý rủi ro của ngành thuế một cách hiệu quả, ông Minh cho rằng, điều quan trọng nhất là cần có một khung pháp lý phù hợp.
Cụ thể, pháp luật làm nền tảng hỗ trợ cho việc quản lý hiệu quả lĩnh vực quản lý rủi ro. Trong đó, cơ quan thuế cần được bổ sung các quyền như yêu cầu cung cấp thông tin và các tài liệu khác từ người nộp thuế và các bên thứ ba để xác minh nghĩa vụ thuế.
Bên cạnh đó, ông Minh cho rằng, cơ quan thuế cần được tiếp cận không giới hạn với các thông tin do ngân hàng nắm giữ; kiểm tra và ấn định thuế bằng các phương pháp gián tiếp; có đầy đủ các biện pháp xử phạt hành chính và các chế tài khác; giảm nhẹ mức độ xử phạt đối với trường hợp người nộp thuế khai báo tự nguyên hoặc có hành vi hợp tác.