Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Nam trong Tết Mậu Thân năm 1968 cùng với thắng lợi của quân và dân miền Bắc đánh bại chiến tranh phá hoại đã làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ. Sự giận dữ của người dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa của Mỹ tại Việt Nam ngày càng lên cao, đêm 31.3.1968, Tổng thống Mỹ L.B.Johnson phát biểu trên đài truyền hình đã thừa nhận thất bại trong Tết Mậu Thân, cam kết “sẵn sàng đi bước đầu tiên trên con đường xuống thang” và không ra tranh cử Tổng thống thêm một nhiệm kỳ nữa. Ngày 3.11.1968, đại diện Mỹ đã gặp ta đề nghị hai bên có một “cuộc họp thực chất dưới hình thức mới”. Lúc này, Mỹ mới chấp nhận thành phần bốn bên trong đàm phán ở Hiệp định Paris, bao gồm: Mỹ, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Chuẩn bị cho hội nghị bốn bên diễn ra, một loạt các cuộc họp bàn thảo về thủ tục đã diễn ra, trong đó gay cấn, nảy lửa và tốn nhiều thời gian nhất trong cuộc đấu trí ngoại giao này, lại xoay quanh về chiếc bàn ngồi trong hòa đàm. Trải qua 8 cuộc họp bí mật bàn thảo giữa hai bên kéo dài gần 2 tháng, Việt Nam và Mỹ mới đi đến thống nhất về chiếc bàn trong phiên họp công khai.
Với Việt Nam, các phiên họp là cuộc họp bốn bên, còn Mỹ gọi là cuộc họp hai phía nên việc tranh luận về chiếc bàn và cách sắp xếp chỗ ngồi diễn ra gay gắt. “Trong lịch sử đấu tranh ngoại giao thế giới chưa bao giờ lại có kiểu bắt đầu đặc biệt như vậy: trước tiên là đấu tranh về cái bàn”, bà Nguyễn Thị Bình trong cuốn hồi ký Mặt trận Dân tộc Giải phóng Chính phủ Cách mạng lâm thời tại Hội nghị Paris về Việt Nam xuất bản năm 2001 cho biết.
Trước tiên, phía Mỹ đề nghị nhờ Pháp thu xếp, phía Việt Nam chúng ta không đồng ý. Việt Nam cho rằng đi vào đàm phán bốn bên các đoàn phải bình đẳng, độc lập với nhau, thể hiện vai trò và vị trí của mỗi bên và phản ánh tương quan lực lượng trên chiến trường. Việt Nam yêu cầu đề cao vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng nên đề nghị một bàn vuông hoặc một bàn hình thoi và bốn đoàn ngồi bốn cạnh.
Phía Mỹ có nhiều sáng kiến để thể hiện khái niệm hai phía của họ. Lúc đầu họ đề ra cái bàn chữ nhật: Phía Mỹ và Chính quyền Sài Gòn ngồi một bên, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận Dân tộc Giải phóng ngồi một bên.
Tiếp đó họ gợi ý ra ba kiểu bàn khác:
- Hai bàn hình cung đối diện nhau, không tách rời nhau.
- Hai nửa vòng tròn đối diện nhau, tách rời nhau.
- Hai nửa vòng tròn đối diện nhau, ở giữa có khoảng cách, hai đầu có hai bàn chữ nhật cho thư ký ngồi.
Phía Việt Nam đề nghị lấy kiểu thứ hai của Mỹ nhưng không tách ra mà ghép lại thành một bàn tròn. Hai bên cứ như thế là đã mất hết hai tháng cuối năm 1968. Sang tháng giêng năm sau, phía Mỹ lại đề nghị ba kiểu bàn khác:
- Một bàn tròn liên tiếp có hai phần dành cho thư ký đối diện nhau - và hai phần đó tụt xuống thấp hơn, một nửa về phía Việt Nam, một nửa dành cho phía Mỹ.
- Một bàn trong có kê hai chiếc bàn cho thư ký đối diện nhau và dính sát vào bàn tròn.
- Hai bàn dài khép kín bằng hai nửa vòng tròn dành cho thư ký.
Trong quá trình thảo luận, đại sứ Oborenko Liên Xô tại Pháp có tham gia ý kiến và ngày 15.1.1969, hai bên chấp nhận gợi ý của đại sứ Liên Xô:
- Về sắp xếp chỗ ngồi: một bàn tròn phẳng lì, có hai bàn chữ nhật kê cách bàn tròn 0,45m đặt ở hai địa điểm đối diện nhau; các bàn này dành cho thư ký.
- Không có cờ và biển.
- Còn thứ tự phát biểu - cũng là vấn đề. Thông thường ở các Hội nghị Quốc tế, ai cũng muốn phát biểu đầu tiên, lúc các nhân vật quan trọng còn có mặt, chứ không ai đợi lúc chiều tà, chợ đã vãn mới nói vì ít người chú ý.
Sau cùng Việt Nam và Mỹ đi đến thống nhất sẽ là một cái bàn tròn to đường kính 8m, cắt đôi, trải khăn bàn màu xanh, mỗi bên có một vạch phân chia nằm bên ngoài. Phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn ngồi sát nhau như một bên, còn phía ta đoàn Mặt trận và đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngồi thành hai đoàn riêng biệt. Bà Nguyễn Thị Bình cho rằng “Đối với dư luận, cách ngồi của Mỹ và chính quyền Sài Gòn là không có lợi cho họ, có thể thấy rõ chính quyền Sài Gòn là tay sai của Mỹ, làm sao mà đại diện được cho nhân dân miền Nam?”.
Theo ý kiến của Liên Xô, thứ tự phát biểu trong Hội nghị này là nhờ Pháp rút thăm cầu may. Phía nào thắng sẽ phát biểu trước. Hôm sau, thể hiện sự thiện chí mong muốn hòa bình nên đại diện Việt Nam không câu nệ gì về thứ tự phát biểu, và nhường cho phía Mỹ phát biểu trước. Ta cũng chấp nhận phiên họp đầu tiên bốn đoàn vào 18.1.1969. Ngày 20.1.1969, Tổng thống L.B Johnson mới rời Nhà Trắng nhưng Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu của Việt Nam Cộng hòa không muốn hòa đàm và không muốn vị Tổng thống này của Mỹ dính dáng vào chuyện bàn thảo Hiệp định Paris. Năm ngày sau khi Tổng thống R.Nixon nhậm chức, phía Việt Nam Cộng hòa mới cử người đến tham gia Hiệp định.
Sau đó, “chiến trường ngoại giao” nổi tiếng trong Hiệp định Paris đã diễn ra gay go và phức tạp trong suốt máy năm liền đã diễn ra “vừa đánh, vừa đàm” nhưng câu chuyện về chiếc bàn trong hội nghị Paris vẫn luôn là câu chuyện nhắc nhở cho chúng ta về sự kiên định, về đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ của Việt Nam.