Truyền thuyết huyễn hoặc về chùa xưa
Xưa kia, chùa tọa lạc trên khu đất rộng 1.500m2, thuộc thôn Láng Trung, xã Yên Lãng, huyện Hoàn Long (nay thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội). Do chùa thuộc địa phận làng Yên Lãng (tên Nôm là Láng) nên mới có tên như trên. Từ khi khởi dựng đến nay 9 thế kỷ trôi qua, diện mạo đã thay đổi nhiều sau những lần trùng tu tôn tạo, diện mạo như ngày nay chúng ta thấy là từ lần trùng tu vào khoảng giữa thế kỷ 19.
Bố cục của chùa Láng nhịp nhàng cân đối. Cổng vào là một hàng bốn cột hoa biểu bằng gạch xây với ba mái cong thanh thoát. Hàng cột vuông vức vươn cao, cao nhất trong quần thể, tạo ra vẻ uy nghi. Đặc biệt, ba mái cong không phủ lên đỉnh cột mà gắn vào sườn cột, mái giữa cao hơn hai mái bên, phảng phất cổng của các cung vua phủ chúa.
Qua cổng chùa, trải ra một khoảng sân lát gạch Bát Tràng. Giữa sân là một sập đá, chỗ mà trước kia, khi mở hội được dùng làm nơi chống đòn kiệu. Cuối sân là cửa Tam quan. Từ đây một con đường gạch thẳng tắp hai bên có tường hoa dẫn tới nhà phương đình.
Phương đình vốn xây hình vuông, tới thế kỷ 19, xây theo hình tám cạnh nên còn gọi là nhà bát giác, là nơi đặt tượng Thánh (Từ Đạo Hạnh) khi làm lễ dâng hoa ngày hội. Qua nhà bát giác là tới chùa chính. Nếp chùa này khép lại không gian kiến trúc vừa bề thế vừa thoáng đãng, giữ cho các khối xây dựng có một quan hệ tương xứng, cân đối.
Do mới trùng tu vào giữa thế kỷ 19 nên trong chùa không còn giữ được nhiều cổ vật, tiêu biểu cho số đó là tấm bia đá với niên đại 1656 dựng ở bái đường. Ở hậu cung ngoài các pho tượng Phật thông thường ra, có đặt tượng thờ vua Lý Thần Tông và tượng thánh Từ Đạo Hạnh. Tượng vua bằng gỗ, tượng thánh bằng mây đan, bên ngoài phủ sơn.
Sự có mặt của hai pho tượng này bắt nguồn từ truyền thuyết: Từ Đạo Hạnh là con ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan, chính gốc người làng Láng này. Ông Từ Vinh bị pháp sư Đại Điên (người làng Dịch Vọng Tiền cạnh đó) giết hại. Để rửa thù, Đạo Hạnh quyết tâm tu luyện, có được phép màu, rồi tìm diệt được Đại Điên. Sau đó ông về tu ở Chùa Thầy thuộc núi Sài Sơn (tức núi Thầy, huyện Quốc Oai). Tục truyền ông đầu thai làm Dương Hoán, con trai Sùng Hiền hầu, em vua Lý Nhân Tông, vua lại không có con nên sau truyền ngôi cho ông, đó chính là vua Lý Thần Tông (1116 - 1138). Do sự tích ấy mà con của Lý Thần Tông là Anh Tông đã cho xây cất chùa Chiêu Thiền để thờ vua cha và tiền thân của ông này là Thánh Từ Đạo Hạnh. Truyền thuyết trên vừa thực vừa hư. Vì Từ Đạo Hạnh là người có thật, các chính sử đều ghi chép tên ông coi như một cao tăng đời Lý.
Lễ hội lớn nhất phía Tây thành Thăng Long
Nhân dân quanh khu vực chùa Láng cũng như vùng chùa Thầy đều dựa vào sự tích đó để tổ chức ngày hội vào cuối mùa xuân để vui chơi giải trí. Có câu ca dao lưu truyền:
Nhớ ngày mồng bảy tháng ba
Trở về hội Láng trở ra hội Thầy...
Hội Láng thực ra là một buổi diễn xướng tổng hợp văn nghệ - thể thao của cả một vùng quê nằm hai bên bờ sông Tô ở ngoại thành Thăng Long xưa.
Trước kia, cứ khoảng 5 - 10 năm thì tổ chức lễ hội lớn (đại hội) một lần thường vào những năm "phong đăng hòa cốc" hoặc vào những dịp làng có sự kiện quan trọng như được phong sắc mới cho thần... Còn lễ hội thường niên thì lấy ngày hóa của Từ Đạo Hạnh, mồng 7 tháng 3 Âm lịch để mở hội.
Sau Tết Nguyên Đán, các cụ bô lão và các vị hương chức đã bàn kén chọn thủ kiệu, chân cờ, quạt nghi trượng.
Dân làng lo chuẩn bị lễ vật dâng Thánh. Vào những năm đại hội làng mổ trâu hoặc mổ bò để tế Thánh; Còn các năm thường thì chỉ mổ lợn, gà làm cỗ dâng Thần và cỗ chay 4 - 5 tầng gồm: xôi nếp, bánh chưng, bánh dày, chè kho, trên có đủ các loại quả do các giáp tự lo sắm sửa để dâng Phật và Hậu Phật (đức Thánh Láng).
Mở đầu lễ hội chùa Láng bằng đám rước bát hương xuống chùa Nền (nơi nhà cũ thờ cha mẹ của Thánh Từ), mang ý nghĩa về thăm nơi chôn nhau cắt rốn. Đồng thời tỏ lòng tôn kính, gửi trọn đời chữ hiếu đối với cha mẹ đã sinh ra đức Thánh Láng. Sáng mùng 6.3, tổ chức lễ mộc dục và lễ giải y thắt cà sa để mặc áo long bào, tượng trưng cho lên ngôi hoàng đế (tương truyền kiếp sau của Từ Đạo Hạnh là vua Lý Thần Tông). Tục truyền, năm nào hạn hán, thì dân làng tổ chức rước tượng Thánh xuống chùa Tam Huyền thăm cha, nên có câu rằng:
Hạn hán xuống thăm cha
Mùng bảy tháng ba lên thăm mẹ
Tối mùng 6, tổ chức rước tượng Thánh Láng ra ngự ở lầu Bát giác và cử hành nghi lễ múa chầu Thánh do 10 cô gái thanh tân do làng chọn biểu diễn. Các cô gái này mặc áo tứ thân, đầu vấn khăn điều, mặc váy lĩnh, thắt lưng hoa lý, đeo xà tích. Hai tay nâng 2 ngọn nến đang cháy, mu bàn tay đeo một bông hoa. Tiếng đàn sáo nổi lên rộn ràng, các cô gái múa quanh lầu Bát giác. Trong khi đó, dân làng đến dự vây quanh lầu lễ bái, cầu Thánh ban cho phước lành...
Sáng mùng 7.3, tổ chức đám rước lớn của 9 làng thuộc xã Yên Lãng xưa, rước Thánh từ lầu Bát giác có đủ cờ quạt và nghi trượng như cờ mao tiết, đến chiêng trống, ngựa gỗ có lọng che. Tiếp theo sau là chấp kích, bát bửu, tay văn, tay võ, phường đồng văn và phường bát âm, múa sênh tiền vừa đi vừa múa. Rồi đến kiệu long đình bày hương hoa, bài vị có lọng che; tiếp đến kiệu Thánh uy nghi. Theo sau là các cụ bô lão, chức sắc, sư sãi, và dân làng cùng du khách thập phương.
Đoàn rước trống chiêng vang rộn, cờ quạt rợp đường. Có cả trò múa con đĩ đánh bồng (do nam giới đóng giả) vừa đi vừa đánh bồng (trống cơm) vừa múa. Điệu múa này hiện vẫn còn diễn ra tại lễ hội của làng Triều Khúc, huyện Thanh Trì. Khi đám rước đến trước chùa Thánh Tổ (thờ Đại Điên) thì dừng lại rồi đốt pháo thăng thiên bắn vào chùa này (diễn lại tích Đạo Hạnh đánh Đại Điên). Độ nửa giờ sau, đám rước mới đi tiếp lên chùa Hoa Lăng ở làng Dịch Vọng Tiền để Thánh thăm mẹ (vốn được thờ tại đó). Kiệu phải lội qua sông Tô Lịch ở chỗ Cống Cót rồi theo bờ sông bên đó mà lên làng trên. Sau lễ rước, các cụ phụ lão, kỳ mục, chức sắc tổ chức tế tại chùa Láng.
Trong lễ hội chùa Láng, còn có nhiều trò chơi, trò diễn dân gian như trò "đấu pháo", "đấu thần" diễn tả lại thần tích, đặc biệt có trò thổi cơm thi: Vừa đi vừa thổi cơm thu hút khách thập phương tới ghé thăm. Đến ngày 15.3, làng cử hành lễ tạ và lễ giải triều phục, mặc áo cà sa nhà Phật.