Truyền thuyết về Đức Thánh Bối
Chùa Trăm Gian còn có tên gọi dân gian là chùa Sở, chùa Núi hay chùa Tiên Lữ. Tương truyền, ngôi chùa này được xây dựng vào năm Trịnh Phù thứ 10 (năm 1185), thời vua Lý Cao Tông. Chùa Trăm Gian nổi tiếng trong vùng vì ngoài thờ Phật còn thờ Đức Thánh Bối ở cung thánh bên trái của Thượng điện và chỉ có nhà sư trụ trì mới được vào hành lễ.
Đức Thánh Bối tên tục là Nguyễn Bình An đạo hiệu Đức Minh Chân Nhân, người gốc làng Bối Khê (huyện Thanh Oai, Hà Nội) đã tu luyện ở đây thành thánh. Khi sống, ngài có nhiều phép lạ, có tích lấy cà muối và nấu một niêu cơm mà cả trăm người thợ ăn không hết. Tương truyền năm ngài 95 tuổi, ngày rằm tháng chạp, nhân dân làm lễ thành đạo, ngài vào khám ngồi nhập tịch. Đến mùng 4 Tết khi đệ tử mở cửa khám, mùi thơm tỏa ra khắp nơi. Dân làng và đệ tử đã xây tháp để lưu giữ kim thân và tôn thờ là “Đại thánh Khai sơn Bình đẳng Hành nghĩa tín Bồ tát”. Từ đây, hàng năm vào ngày mùng 4 tháng Giêng tổ chức lễ hội để tưởng nhớ đến Đức Thánh Bối và kéo dài đến mùng 6 tháng Giêng hàng năm.Trong lễ hội chùa Trăm Gian có tổ chức các cuộc tế lễ trọng thể và rước kiệu thánh linh đình, còn tổ chức các cuộc thi cỗ chay và trình rối cạn. Đoàn khách từ Bối Khê, quê của Đức Thánh Bối sang dự lễ hội chùa Trăm Gian được gọi là các cụ Sãi quan anh, gồm 8 cụ ông và 8 cụ bà. Dân xã Tiên Lữ sử soạn cỗ bàn đón tiếp đoàn Bối Khê rất thịnh soạn, cỗ to bày trên mâm vuông hai tầng với đủ các món ăn sang trọng. TS. Nguyễn Quốc Tuấn cho rằng Hội chùa Trăm Gian thực ra cũng là hội làng, hội vùng, giống như hội làng Phù Đổng
Di sản kiến trúc Phật giáo độc đáo
Theo các vị bô lão truyền kể, núi Sở vốn là núi Mã (núi con ngựa), cạnh đó có núi So là con hổ, các gò đồi xung quanh có các tên là con Mộc, con Hỏa, con Long... tất cả đã tạo cảnh quan hùng vĩ nơi đây.
Chùa Trăm Gian là một quần thể kiến trúc độc đáo, tọa lạc trên một quả đồi, các đơn nguyên kiến trúc của chùa này cộng lại có tất cả 104 gian nhà, chia thành ba cụm kiến trúc chính: Tam quan, Gác chuông và chùa chính.
Tam quan được cổ nhân xây dựng với hai trụ lớn tạo một lối đi ở giữa, hai bên là hai tường nối với hai trụ nhỏ. Với lối kiến trúc này, Tam quan đã mang tính chất như cổng đình, đền. Qua Tam quan là một sân gạch có hai dãy hành lang ở hai bên. Cuối sân là con đường uốn khúc chữ “chi” nâng dần độ cao lên đỉnh đồi đi lên chùa; ở giữa con đường này là rặng thông cổ thụ, tạo dựng lên nét trầm mặc của phong cảnh. Cuối đường gạch là con đường rẽ phải thì lên nhà bia, còn rẽ trái là đến gác chuông.
Gác chuông nằm trên trục tâm của khu Tam bảo, hơi lệch về phía tây một chút. Phía dưới Tam quan là nhà Giá Ngự nhìn ra mặt hồ sen, nơi đặt kiệu thánh để xem trò múa rối nước, xem các trò chơi dân gian tổ chức ở hồ bán nguyệt dưới chân núi, tựa như một khúc sông cong cong tụ phúc.Gác chuông chùa Trăm Gian là một trong số ít các gác chuông cổ nhất hiện còn trên đất Hà Nội ngày nay. Tương truyền, gác chuông được xây dựng vào năm 1693. Gác chuông có lối kiến trúc “nhất biến tam, tam biến cửu”, bốn bộ vì được đặt trên 16 cột bằng gỗ lim, nhưng tập trung trên bốn cột cái. Mặt bằng kiến trúc hình vuông, hai tầng tám mái với nhiều hoa đao uốn hắt lên tạo cho gác chuông như một bông sen thanh khiết.Gác chuông tựa như là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao, điêu khắc tinh xảo nhiều hình chạm rồng xen lẫn mây lửa mang phong cách cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18. Hiện nay, gác chuông còn treo một quả chuông cao 1,1m có đề bốn chữ Hán “Quảng Nghiêm cổ tự” được đúc năm Cảnh Thịnh thứ 2 (năm 1794). Trên chuông có khắc một bài minh của Phạm Huy Ích (1751 - 1822), là quan đại thần trải ba triều đại Lê trung hưng, Tây Sơn và Nguyễn.
Từ gác chuông qua khoảng sân hẹp, leo lên trên những bậc đá xanh hình rồng mây, lên trên sân chùa có kê một chiếc sập đá hình chữ nhật rồi tới khu Tam bảo. Khu trung tâm của chùa là một tổng thể kiến trúc khép kín, gồm Bái đường, Thiêu hương và Thượng điện kết hợp với nhau thành chữ “công”. Hai bên có hai dãy hành lang dài ăn thông với tòa Tiền đường và Hậu đường, tạo thành chữ “quốc”. Khoảng sân sau Thượng điện là Phương đình treo khánh, được xem như một nốt son điểm. Ngoài ra, chùa Trăm Gian còn có vườn tháp mộ các vị sư trụ trì và miếu trấn ở bốn góc đồi.
Các công trình ở hai khu chính và phụ gắn kết với nhau một cách hài hòa. Nếu tính gian theo kiểu truyền thống được phân ra bởi các vì thì tòa Tiền đường bảy gian, nhưng Hậu đường cũng cùng chiều dài nhưng lại bố trí thành 9 gian. Thượng điện chỉ có ba gian nhưng mái trước kéo dài, có tường bên kéo thẳng sang Tiền đường như kiểu chữ “đinh”, tuy nhiên phần mái chìa ra khoảng nhỏ ở hai bên Thiêu hương để duy trì truyền thống chữ “công” và cũng là để ánh sáng lọt vào Phật điện.
Về hiện vật, chùa Trăm Gian còn lưu giữ được nhiều di vật quý, trong đó đáng kể là đôi rồng đá thời Trần làm lan can thành bậc. Tại chùa Trăm Gian có 153 pho tượng, hầu hết bằng gỗ, một số ít bằng đất nung, đặc biệt quý là tượng Tuyết Sơn, tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Ở giữa Thượng điện có một bệ bằng đất nung đỏ hình khối chữ nhật, trên bệ đá là đài sen, xung quanh trang trí nhiều hình động vật và hoa lá, bốn góc có hình chim thần Kim Sí Điểu. Trên bệ thờ đặt các tượng Phật tam thế. Ngoài ra, những bức phù điêu La Hán và Thập điện chùa Trăm Gian được nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, đây là sự phối hợp tuyệt đẹp giữa phù điêu và hệ thống tượng tròn trong một ngôi chùa, là một hiện tượng rất độc đáo, hầu như không gặp lại ở những trung tâm Phật giáo khác.
Trong số những pho tượng hậu ở trong chùa, nổi bật là pho tượng Đô đốc Đặng Tiến Đông, một quan võ nổi tiếng thời Tây Sơn với chiến thắng đã đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược, giải phóng Thăng Long - Đông Đô khỏi ách đô hộ của quân xâm lược đầu xuân Kỷ Dậu (năm 1789). GS. Phan Huy Lê cho biết năm 1927, con cháu họ Đặng cùng dân làng đã dùng phiến đá của Đặng Tiến Đông trước đây dựng Đặng tướng công bi để "lưu truyền mãi mãi" và mặt sau là bia công đức, bia hậu của ông.
Theo tấm bia Quảng Nghiêm tự bi ký dựng năm Hoằng Định 4 (năm 1603), thì ngôi chùa này đẹp nhất phủ Quốc Oai. Những thập niên gần đây, ngôi chùa liên tục được tu bổ, tôn tạo nhưng về cơ bản vẫn theo lối cũ. Vì những giá trị nổi bật về kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc nên năm 1962 chùa Trăm Gian đã được Bộ VHTTDL xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia.