Nguồn nước chính bị ô nhiễm
Dự án nâng cấp đê Quan Lạn có tổng vốn đầu tư khoảng 330 tỉ đồng, dự kiến hoàn thành vào năm 2018 nhưng đến nay vẫn còn ngổn ngang. Một phần rừng ngập mặn phía trong đê đã chết, phần nước bên trong đê đã chuyển sang màu đục, hôi thối bởi hệ thống cống trên tuyến đê dài 7,5km chưa thể thông, khiến nước không thể ra – vào.
Theo những người dân Quan Lạn, chính điều đó đã khiến cơ bản giếng nước của người dân trên đảo đổi màu và mùi. “Du khách cũng thắc mắc như vậy và được giải thích thì thông cảm, bởi bao đời nay, Quan Lạn sống phụ thuộc nhiều vào nước giếng và nay nước trong đồng không thông với biển, ảnh hưởng tới chất lượng nước giếng” – ông Nguyễn Quang Mỹ, 80 tuổi, trú tại thôn Đông Nam, xã Quan Lạn, cho biết.
Anh Bùi Đông – chủ một khách sạn tại Quan Lạn – cho biết, để phục vụ du khách, 5/7 máy bơm của khách sạn phải hoạt động 24/24 hút nước từ các giếng của gia đình. “Để nước đảm bảo chất lượng, tôi cho hút nước từ giếng chuyển qua hệ thống 3 bình lọc, đưa về bể lắng, sau đó lại chuyển sang bể chứa rồi mới bơm lên téc trên sân thượng” – anh Đông chia sẻ.
Theo tìm hiểu, hiện, không phải khách sạn nào cũng thực hiện quy trình xử lý nước giếng tốn kém như khách sạn này.
Chị T – một người dân ở thôn Thái Hòa – cho biết, năm 2017, gia đình khoan một giếng mất 80 triệu, nhưng chỉ được một thời gian, nước chuyển sang hôi thối, nên mất thêm 50 triệu nữa để khoan một giếng ở trên cao thì chất lượng nước tạm ổn. “Không thể trông đợi vào nguồn nước mưa được, còn cứ đi mua nước do một số hộ lấy từ các đập về, với giá 60.000 đồng/m3 thì không chịu nổi chi phí” – chị T nói.
Chẳng lẽ đợi trời?
Theo một người chuyên cung cấp nước cho các hộ dân, mỗi ngày chỉ riêng vị này cấp hàng nghìn m3 nước lấy từ hồ Lòng Dinh cho người dân xã đảo. Hiện, cả đảo có khoảng 7 “nhà” cung cấp, nên giá nước đã giảm nhẹ, nhưng vẫn là gánh nặng đối với các hộ dân và không phải lúc nào cũng mua được. Khốn khổ nhất là 400 hộ thôn Tân Phong, lâu nay nước giếng chỉ dùng cho giặt giũ, giờ đành bỏ vì đục và hôi thối sau khi có đê. Vì thế, nước uống vẫn trông đợi vào mưa, còn nước sinh hoạt phải đi mua hoàn toàn.
Theo Phạm Phúc Quảng – Giám đốc Ban Quản lý các dự án công trình nông nghiệp – phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ninh, chủ đầu tư dự án, dự án chậm tiến độ là do nguồn vốn từ Bộ chuyển về chậm, vì thế, chưa thể mở thông hệ thống cống, nhằm ngăn nước mặn tràn vào nội đồng. Tuy nhiên, người dân Quan Lạn cho rằng, cảnh đồng đã bị bỏ hoang từ lâu do đơn vị thi công đê làm ẩu, khiến nước biển từng tràn ngập đồng năm 2016.
Ông Lưu Minh Đức – Chủ tịch UBND xã Quan Lạn – thừa nhận, việc tiến độ dự án chậm đã ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của người dân, nhất là nước sinh hoạt. Trong khi đó, dự án đưa nước sạch về từng hộ dân lẽ ra phải hoàn thành vào năm 2015 nhưng đến nay “nằm im, bất động”.
“Biết bao lời hứa tại các cuộc tiếp xúc cử tri rằng “sẽ có nước sạch trong năm nay”, nhưng dân vẫn đang đi mua từng thùng nước” – ông Nguyễn Quang Mỹ nói.