Ngày 28.6, với tỉ lệ 95,06% tổng số đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội khóa XV đã chính thức thông qua dự án Luật Thủ đô (sửa đổi). Luật Thủ đô (sửa đổi) gồm 7 chương, 54 điều (tăng 3 chương, 27 điều so với Luật Thủ đô năm 2012). Luật đã bám sát 5 quan điểm chỉ đạo xây dựng dự thảo và 9 nhóm chính sách đã được Quốc hội quyết định. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1.1.2025; có 7 quy định có hiệu lực thi hành từ ngày 1.7.2025.
Theo Luật Thủ đô sửa đổi, thành phố Hà Nội được bầu 125 đại biểu HĐND Thành phố, trong đó có ít nhất là 25% tổng số đại biểu hoạt động chuyên trách (tăng 30 đại biểu so với hiện tại). Thường trực HĐND thành phố Hà Nội hoạt động chuyên trách có không quá 11 thành viên, gồm Chủ tịch, không quá 3 Phó Chủ tịch (tăng 1 Phó Chủ tịch và 4 thành viên Thường trực HĐND Thành phố).
Theo quy định tại Luật thì HĐND Thành phố sẽ phải thực hiện tăng thêm trên 80 nội dung nhiệm vụ, quyền hạn. Do đó, việc tăng thêm số lượng đại biểu chuyên trách sẽ thêm sức mạnh cho bộ máy hoạt động để không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả, chất lượng hoạt động của HĐND các cấp; bảo đảm thực chất và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Luật cũng phân quyền trực tiếp với quy định trong thời gian HĐND Thành phố không họp, Thường trực HĐND Thành phố quyết định một số nội dung và báo cáo HĐND Thành phố tại kỳ họp gần nhất. Quy định này sẽ giúp bảo đảm tính cấp thiết, kịp thời trong quá trình quản lý, điều hành ở Thủ đô.
Đối với UBND thành phố Hà Nội, Điều 14 Luật Thủ đô (sửa đổi) phân cấp, ủy quyền của UBND, Chủ tịch UBND và cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND: Luật phân cấp cho chính quyền Thành phố quyết định thành lập mới đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý; UBND, Chủ tịch UBND, cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND các cấp được phân cấp hoặc ủy quyền thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện việc phân cấp hoặc ủy quyền theo quy định tại điều này có trách nhiệm bảo đảm điều kiện về tài chính, nguồn nhân lực và điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình phân cấp, ủy quyền; hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đã phân cấp, ủy quyền và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình đã phân cấp, ủy quyền.
Luật cũng nêu rõ, cơ quan, tổ chức, cá nhân được ủy quyền chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ủy quyền về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà mình được ủy quyền. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận ủy quyền không được ủy quyền tiếp cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn đã được ủy quyền.
Cơ quan, tổ chức, người đứng đầu cơ quan, tổ chức được ủy quyền được sử dụng hình thức văn bản, con dấu của cơ quan, tổ chức mình để thực hiện nhiệm vụ được ủy quyền.
Theo Luật quy định, HĐND Thành phố quy định chi tiết phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được ủy quyền cho công chức thuộc UBND cấp xã, được phân cấp, ủy quyền cho đơn vị sự nghiệp công lập, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quy định tại điều này.
UBND Thành phố ban hành văn bản quy định việc điều chỉnh trình tự, thủ tục, thẩm quyền của các cơ quan liên quan trong quá trình giải quyết công việc phù hợp với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp, ủy quyền theo quy định tại điều này; bảo đảm yêu cầu về cải cách thủ tục hành chính, không quy định thêm thành phần hồ sơ, không tăng thêm yêu cầu, điều kiện, thời gian giải quyết thủ tục đang áp dụng.