Nhiều khó khăn khi thế chấp bằng sáng chế
Với mức tăng mạnh, tiềm năng sử dụng của các bằng sáng chế là vô cùng lớn. Bên cạnh việc tự khai thác, về lý thuyết, cá nhân và doanh nghiệp có khả năng sử dụng bằng sáng chế để thế chấp, vay vốn ngân hàng. Nhưng trên thực tế, chưa có nhiều doanh nghiệp sử dụng bằng sáng chế và các quyền liên quan tới sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp để vay vốn.
Báo cáo thường niên hoạt động sở hữu trí tuệ năm 2020, giai đoạn 2010-2020 cho thấy, số lượng sáng chế của người Việt Nam được bảo hộ tại Việt Nam là 970, số lượng giải pháp hữu ích là 1.319, chiếm tỉ lệ rất nhỏ so với số lượng nhãn hiệu và kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ, đồng nghĩa là loại tài sản trí tuệ này chưa phát triển ở Việt Nam.
Đáng chú ý, tính độc đáo và đặc biệt của các loại bằng sáng chế cũng như quyền khai thác chúng lại đang khiến nhiều doanh nghiệp gặp không ít khó khăn nếu muốn sử dụng loại tài sản này để thế chấp, vay vốn ngân hàng.
Một trong số đó là vấn đề định giá sáng chế, xác định tài sản góp vốn, tài sản thế chấp. Thực tiễn cho thấy, các ngân hàng Việt Nam khi cho vay đều đòi phải thế chấp tài sản có giá trị, chủ yếu là nhà, đất. Đối với tài sản vô hình, theo Thông tư số 06/2014/TT-BTC, có 3 cách tiếp cận khác nhau trong thẩm định giá.
Mỗi cách tiếp cận lại có những phương pháp định giá khác nhau với nhược điểm và ưu điểm riêng, khiến các bên liên quan khó đồng nhất khi thẩm định giá trị bằng sáng chế được thế chấp.
Các quy định về nội dung hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu sáng chế tuy đã có, nhưng vẫn còn chung chung, chưa cụ thể. Sự thiếu hụt các quy định chi tiết liên quan đến nội dung hợp đồng khiến việc khai thác thương mại bằng sáng chế tại Việt Nam gặp nhiều khó khăn, hạn chế.
Tài sản thế chấp nhiều rủi ro
Không chỉ khó khăn khi thẩm định giá, các ngân hàng còn phải chịu một số rủi ro nhất định khi nhận thế chấp bằng tài sản trí tuệ như duy trì giá trị của tài sản trí tuệ hay các quy định pháp lý.
Vấn đề duy trì giá trị của tài sản vô hình trí tuệ đòi hỏi sự am hiểu của người quản lý, việc theo dõi sát sao giá trị của loại hình tài sản này cũng trở nên phức tạp hơn các loại tài sản thông thường khác. Ví dụ, tốc độ phát triển công nghệ là một yếu tố ảnh hưởng tới giá trị tài sản trí tuệ vì nếu có công nghệ mới được đưa vào thị trường, giá trị của tài sản trí tuệ kết hợp với các sản phẩm của nó trên thị trường có thể sẽ giảm mạnh.
Cùng với đó, các ngân hàng cũng phải đối mặt với rủi ro về sự xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và hết thời hạn bảo hộ. Cho dù được bảo hộ về mặt luật pháp, nhưng khi các mặt hàng giả, nhái theo công nghệ hay sản phẩm được bảo hộ xuất hiện trên thị trường, giá trị của tài sản trí tuệ cũng ít nhiều bị ảnh hưởng.
Việc hết thời hạn bảo hộ cũng là một vấn đề phức tạp vì khi đó, ngân hàng khó khăn trong việc giao dịch, chuyển nhượng hoặc thanh lý, dẫn tới giảm giá trị.
Trong một nghiên cứu về khai thác thương mại sáng chế chuyển đổi số, PGS.TS Phan Quốc Nguyên (Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) và TS Phạm Ngọc Minh (Viện Công nghệ thông tin, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) cũng chỉ ra rằng, mặc dù pháp luật về sở hữu trí tuệ và một số chuyên ngành khác như chuyển giao công nghệ, đầu tư, doanh nghiệp, giao dịch bảo đảm đã có quy định khuyến khích chủ sở hữu sáng chế thế chấp, góp vốn để kinh doanh bằng chính sáng chế của mình. Tuy nhiên, các quy định pháp lý cụ thể tại các văn bản pháp quy về sở hữu trí tuệ và một số chuyên ngành khác nhằm khuyến khích việc này của các chủ sở hữu sáng chế vẫn còn bỏ ngỏ.