Đời sống văn hóa của công nhân nghèo nàn
Cái thiếu mà nhiều công nhân nhắc tới là thiếu thời gian để giải trí. Anh Nguyễn Văn Trung (25 tuổi) và vợ là chị Hoàng Thị Lan (24 tuổi, cùng quê Thanh Hóa) làm việc cho một Cty dệt của nước ngoài ở Đồng Nai. Anh chị có 2 người con và đang ở trọ tại P.Long Bình, TP.Biên Hòa. Anh Trung cho biết, toàn bộ thời gian một ngày của anh là tăng ca trong nhà máy và thời gian rảnh anh dành cho việc ngủ, nghỉ ngơi để tái tạo sức lao động và trông con. Anh Trung chia sẻ: “Nhiều khi tôi không có thời gian để giải trí, do tôi phải tăng ca thường xuyên, khi về nhà phải trông con cho vợ đi làm và phải ngủ để lấy sức ngày mai đi làm việc tiếp”. Hơn nữa, theo anh Trung, nếu có thời gian rảnh thì cũng không có chỗ để giải trí cho công nhân ngoài việc ở nhà lướt Internet.
Theo bà Lê Thị Nguyệt - Phó phòng Lao động, BQL các KCN tỉnh Đồng Nai - phần lớn các nhà trọ CNLĐ không có các phương tiện nghe nhìn, không có sách báo để đọc, mặt khác do thời gian làm việc kéo dài, cường độ lao động cao, vì thế ngoài giờ làm việc, CNLĐ phải dành thời gian để nghỉ ngơi, ngủ lấy lại sức khỏe nên thường họ không có thói quen đọc sách báo, nghe đài, xem tivi… Cơ hội tiếp cận thông tin, tiếp cận với những thay đổi của đời sống văn hóa xã hội của CNLĐ bị hạn chế, thu hẹp, dẫn đến nhu cầu giải trí văn hóa tinh thần cũng dần giảm sút.
Ông Đinh Sỹ Phúc - Chủ tịch CĐCS Cty Taekwang Vina (KCN Biên Hòa 2, Đồng Nai), Cty có trên 33.000 NLĐ - cho rằng, hiện nay, CNLĐ không có nhiều lựa chọn trong việc tham gia các chương trình văn nghệ, thể thao. Sau giờ làm, họ chủ yếu la cà các quán cà phê, lướt Internet, chơi game… Mặc dù nhu cầu sinh hoạt văn hóa văn nghệ, thể thao là rất lớn.
Một đại biểu chia sẻ tại hội thảo: Thực tế, khi đến các khu nhà trọ tập trung vào những ngày nghỉ cuối tuần, dễ dàng bắt gặp hình ảnh NLĐ ngủ muộn hơn ngày làm việc, âm thanh của những bài hát não tình, tiếng thuyết minh của những bộ phim chưởng, tình cảm xen lẫn nhau. Các nam công nhân thì tập trung đánh bài, uống rượu, các nữ công nhân thì tập trung xem các bộ phim tình cảm ủy mị hoặc nấu ăn, trò chuyện.
“Có lẽ đây là những cách giải trí, cách hưởng thụ duy nhất và thực tế đối với công nhân. Cũng chính từ sự nghèo nàn đơn điệu và lệch lạc trong văn hóa giải trí dễ dẫn đến một số hiện tượng ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự chung như đánh nhau, tiếng ồn giữa các phòng làm ảnh hưởng đến phòng khác, dẫn đến cãi vã, gây gổ nhau…; tình trạng thiếu văn hóa tinh thần lại dẫn đến thiếu văn hóa trong ứng xử” - vị đại biểu này nhấn mạnh.
Phải nắm được “cầu” để đáp ứng “cung”
Theo thông tin từ hội thảo, các công trình thư viện, nơi vui chơi, giải trí, sinh hoạt văn hóa, tinh thần, thể dục thể thao dành cho công nhân bước đầu được xây dựng nhưng chưa thu hút được CNLĐ. Chị Lê Thị Như - công nhân đang làm việc tại KCN Biên Hòa 2, TP.Biên Hòa, Đồng Nai - chia sẻ: “Thực sự thì tại Cty tôi cũng có mở thư viện, ban đầu tôi cũng tò mò vào để theo dõi nhưng vì trong đó chủ yếu là các sách báo nói về khoa học, tư tưởng... đọc rất mệt, nên tôi thường ra các quán cà phê có wifi để lướt Internet và tán gẫu với bạn bè. “Tôi chỉ muốn xem cái gì vui vẻ để giải trí” - chị Như
trần tình.
Ông Tăng Quốc Lập - Phó Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Đồng Nai - cho biết, qua khảo sát cho thấy, nhà trọ dành cho NLĐ nhập cư thuê đa số là tạm bợ, phần lớn không đảm bảo nhu cầu sinh hoạt tối thiểu của NLĐ. Các yếu tố thiết yếu trong cuộc sống như diện tích, vệ sinh, môi trường, điện, nước đều thiếu thốn, hoặc dưới mức tối thiểu. Đa số phòng trọ chỉ rộng 10-12m2, thậm chí có phòng chỉ 7-8m2, nhưng để tiết kiệm có phòng đến 3-5 người chung nhau thuê để ở. Xuất hiện một bộ phận công nhân sống buông thả, sa vào tiêu cực và tệ nạn xã hội. Do đó, theo ông Tăng Quốc Lập, muốn nâng cao đời sống văn hóa cho CNLĐ, hướng họ tới các hoạt động giải trí bổ ích, lành mạnh, thì phải có định hướng nhưng phải theo “cầu” của NLĐ để cung cấp cho NLĐ.
Đồng quan điểm trên, ông Trần Duy Phương - Trưởng ban Tuyên giáo Tổng LĐLĐVN - cho rằng: Để nâng cao chất lượng đời sống văn hóa cho CNLĐ, chúng ta cần phải hướng tới công nhân, xem công nhân muốn xem gì, muốn nghe gì để phục vụ họ, từ đó mới cho thấy được hiệu quả trong việc chăm lo đời sống văn hóa cho công nhân.