Hiện SVB được đặt dưới sự kiểm soát của Công ty Bảo hiểm Ký thác Liên bang Mỹ (FDIC). Thế nhưng, tính tới cuối năm 2022, có tới 89% trong tổng số 175 tỉ USD ở SVB không có bảo hiểm tiền gửi. FDIC được phép muốn tìm một ngân hàng khác để sáp nhập vào SVB để bảo vệ các khoản tiền gửi không được bảo đảm. Nguyên nhân do môi trường lãi suất tăng cao khiến các đợt phát hành trái phiếu lần đầu ra công chúng đối với nhiều công ty khởi nghiệp đình trệ và việc huy động vốn tư nhân trở nên tốn kém hơn. Sự phá sản của SVB đã để lại một lỗ hổng lớn trong ngành công nghệ, với việc các start-up và nhà đầu tư mạo hiểm không biết sẽ trả lương nhân viên thế nào.
Các vấn đề tại SVB cũng bộc lộ rõ những hạn chế trong chiến dịch chống lạm phát của FED và các ngân hàng trung ương khác khi muốn chấm dứt kỷ nguyên tiền rẻ.
Các ngân hàng Mỹ đã mất hơn 100 tỉ USD giá trị trên thị trường chứng khoán, trong khi các ngân hàng Châu Âu thì mất thêm khoảng 50 tỉ USD.
Các công ty cho vay của Mỹ là First Republic Bank và Western Alliance cho biết, thanh khoản và tiền gửi của họ vẫn mạnh, nhằm mục đích xoa dịu các nhà đầu tư khi cổ phiếu của họ giảm giá. Commerzbank của Đức đã đưa ra những tuyên bố bất thường để trấn an các nhà đầu tư.
Một số nhà phân tích dự báo lĩnh vực ngân hàng sẽ chịu nhiều tổn thất hơn khi vụ việc tiếp tục làm dấy lên lo ngại về rủi ro tiềm ẩn và sự mong manh trước chi phí tiền tệ ngày càng tăng.
Christopher Whalen - Chủ tịch Whalen Global Advisors - cho biết: “Có thể sẽ có một cuộc “tắm máu” vào tuần tới khi những người bán khống xuất hiện, tấn công mọi ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng nhỏ hơn”.
Tỉ phú Mark Cuban cảnh báo: “Nếu FED không ngay lập tức mua tất cả chứng khoán/nợ mà ngân hàng sở hữu ở mức gần ngang giá nhằm chi trả cho hầu hết các khoản tiền gửi, niềm tin vào hệ thống ngân hàng sẽ trở thành một vấn đề. Có rất nhiều ngân hàng có hơn 50% tiền gửi không được bảo hiểm".
Một điều đáng chú ý, là Joseph Gentile - Giám đốc Hành chính của SVB hiện tại từng là Giám đốc Tài chính của Lehman Brother - một ngân hàng từng gây rúng động giới tài chính sau sự sụp đổ năm 2008. Vào thời điểm phá sản, Lehman là ngân hàng đầu tư lớn thứ tư tại Mỹ với 25.000 nhân viên, 639 tỉ USD tài sản và nợ 613 tỉ USD.
Sự sụp đổ của Lehman Brothers, Bear Stearns và đặc biệt Washington Mutual (WaMu) cách đây hơn một thập kỷ đã kéo theo hiệu ứng domino. Từ năm 2008 đến 2015, hơn 500 ngân hàng có bảo hiểm từ liên bang đã phá sản. Trong những năm gần đây đã ít ngân hàng phá sản hơn, một phần nhờ các quy định thắt chặt được đưa ra sau cuộc khủng hoảng tài chính. Trước khi sụp đổ, WaMu có 309 tỉ USD tài sản khi đối mặt với những khoản lỗ lớn từ hoạt động cho vay thế chấp rủi ro.
Quy định được đưa ra cho các ngân hàng lớn nhất của Mỹ sau cuộc khủng hoảng tài chính bao gồm các yêu cầu nghiêm ngặt về vốn: Phải có một lượng dự trữ nhất định cho những thời điểm khủng hoảng, tuân thủ mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh doanh.
Khả năng lan rộng ra toàn ngành hay không từ câu chuyện của SVB vẫn chưa chắc chắn. SVB chủ yếu cho các start-up công nghệ và chăm sóc sức khỏe vay. Ngân hàng này có tài sản trị giá 209 tỉ USD vào cuối năm ngoái, nhưng vẫn còn nhỏ so với ba ngân hàng hàng đầu khi mỗi công ty nắm giữ hơn 1.000 tỉ USD với mô hình kinh doanh và cơ sở khách hàng đa dạng hơn nhiều.
Với cổ phiếu, trong khi một số công ty nhỏ bị giảm, thì một số ngân hàng lớn nhất Phố Wall như JPMorgan, Wells Fargo và Citigroup… đã tăng cao.
Nhiều cơ quan quản lý cho rằng, hệ lụy từ SVB sẽ không lan rộng khắp ngành tài chính Mỹ, nhưng một số chuyên gia lại nghĩ khác.
Joseph Lynyak, luật sư ngân hàng tại công ty D.C. Dorsey & Whitney, người chuyên về các khoản thu của ngân hàng, cho biết: “Chính phủ đã hạn chế khả năng WaMu vay tiền mặt, dẫn đến mất khả năng thanh khoản. Trường hợp của SVB cũng vậy. Vấn đề không phải là cạn vốn, mà là hết tiền mặt”.
GS Kenneth Rogoff, chuyên gia kinh tế và chính sách công tại ĐH Harvard cho rằng, còn quá sớm để thảo luận về một sự sụp đổ mang tính hệ thống, nhưng nền kinh tế đang ở vị thế mạnh hơn đáng kể so với năm 2008.