Phát hiện khảo cổ học gây tiếng vang một thời
Năm 1935, nhà khảo cổ học Olov Janse (Thụy Điển) phát hiện ra cây đèn đồng hình người quỳ khi khai quật ngôi mộ số 3 Lạch Trường (Hoằng Hóa, Thanh Hóa) và chuyển về trưng bày tại Bảo tàng Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia). Sau 24 năm, ông đã cho ra mắt cuốn bút ký khảo cổ học gây nên tiếng vang một thời: "Bí mật cây đèn hình người". Từ đó cho đến nay, báu vật cây đèn đồng hình người được đề cập trong hầu hết các tài liệu khảo cổ học về văn hóa Đông Sơn được xuất bản.
Cây đèn cao 40cm, dài 30cm, rộng 27cm và nặng 1,9cm, tạo hình tượng người đàn ông mình trần với khuôn mặt bầu, cởi trần đóng khố trong tư thế quỳ. Tượng có đôi mắt mở to, sâu, nổi rõ lông mi, lông mày dày, sống mũi cao, râu quai nón, tóc cuộn hình xoắn ốc, đeo hoa tai. Trên đầu chít khăn, có người cho là vương miện. Bụng có một thắt lưng trang trí văn hoa sen, nhìn thấy lỗ rốn và hai đầu vú. Hai tay nâng đĩa đèn. Hai vai và trên lưng có ba nhánh hình chữ S, đầu nhánh có đĩa đèn dầu, cuối nhánh có hình người hai tay đỡ nhánh, giữa mỗi nhánh có tượng người quỳ hai tay chắp lại vái hướng vào nhau, có thể là những vũ công, trên đầu gối và gót chân có 4 tượng là nhạc công trong tư thế quỳ, trong đó có 2 người thổi sáo, hai người cầm nhạc cụ gì không rõ.
Olov Janse khi mới khám phá ra phát hiện khảo cổ học quan trọng này đã nhận định: Cây đèn có giá trị vô cùng quan trọng trong các hoạt động tế lễ về ban đêm, khi ánh sáng đóng vai trò cơ bản. Đó cũng là vũ trụ bao la được thu vào cây đèn, là sự phản ánh của mặt trời, trăng và sao. Ánh sáng phát ra từ cây đèn như ánh hào quang và ánh hào quang đó đưa lại cho con người sự tôn kính thần thánh, tín ngưỡng và sự bất tử.
Những lý giải về nguồn gốc
Theo PGS.TS Hoàng Xuân Chinh, nguyên Viện phó Viện Khảo cổ học Việt Nam tổng kết cho đến nay có những ý kiến về nguồn gốc cây đèn đồng người quỳ Lạch Trường:
Quan điểm xuất hiện đầu tiên, sớm nhất do Olov Janse đề xuất: nguồn gốc cây đèn đồng hình người Lạch Trường, Thanh Hóa là từ Phương Tây, với sự liên hệ quá xa vãng với thần thoại Hy Lạp. Ông phủ nhận tính bản địa của văn hóa Đông Sơn của cây đèn khi cho rằng chủ nhân của chiếc đèn hình người quỳ thuộc chủng Ấn - Âu, không phải là vùng Vân Nam cũng như miền Bắc Việt Nam, do giao lưu văn hóa mà có mặt tại các địa phương trên.
GS. Đỗ Văn Ninh lại cho rằng, nguồn gốc của cây đèn là từ Trung Nguyên, qua câu chuyện, người Hán đánh quân Hung nô, những người có bộ râu quai nón, tóc quăn; bắt quân Hung nô làm tù binh, làm người hầu đội đèn. Câu chuyện ấy được phản ánh qua tác phẩm nghệ thuật Lạch Trường, theo đó, cây đèn chính là của người Hán, mang tư tưởng Hán. Rồi sau này, không chỉ thông qua cây đèn, ở hầu hết các sưu tập đồng, gốm phát hiện trong các mộ gạch đầu Công nguyên ở Việt Nam, nhiều người càng tin hơn vào yếu tố Trung Nguyên của bộ sưu tập này. Chúng được mang vào cùng với đội quân viễn chinh người Hán, để khi chết, chôn theo, như quan niệm của hầu hết các dân tộc Phương Đông.
Quan điểm có tính dung hòa và nhận được nhiều sự đồng thuận từ giới khảo cổ học khi nhìn cây đèn ấy, cùng với một bộ sưu tập hiện vật đầu Công nguyên, như là một sự tiếp biến văn hóa Việt - Hán với thiết kế cách điệu theo hình ảnh một tù binh Hung nô bị bắt và trở thành người hầu bê đèn. Tại tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc cũng phát hiện một vài loại đèn đồng và đèn đất nung trong đó có đèn người quỳ, về kiểu dáng cũng như phong cách và bối cảnh phát hiện tại các ngôi mộ Đông Hán khá giống với cây đèn đồng người quỳ Lạch Trường như: mộ Hạc Đầu Sơn, mộ Cửu Chi Lĩnh, mộ Hắc Mã Tĩnh... Qua những phát hiện ở Việt Nam cũng như ở Quảng Tây, cho thấy rằng mối giao lưu, trao đổi mạnh mẽ giữa Việt Nam và Trung Hoa.
Bởi vì cây đèn đồng hình người quỳ này được phát hiện tại Lạch Trường, vốn là một thương cảng lớn đầu Công nguyên. Cảng Lạch Trường còn có tên gọi là cảng Cửa Trường, cảng Y Bích, nằm ở hạ lưu sông Mã phân nhánh đổ ra biển tại cửa sông Lạch Trường giáp ranh giữa hai huyện Hậu Lộc và Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Qua các nguồn sử liệu và kết quả khai quật khảo cổ học, vùng đất sông Mã từ giai đoạn cách ngày nay trên 2000 năm đã là địa bàn phân bố của văn hóa Đông Sơn nổi tiếng đúc những chiếc trống đồng, đồ đồng tinh xảo.
Nơi đây cũng chính là đất Cửu Chân thuộc Giao Châu dưới thời Trung Quốc đô hộ. Nhiều quan lại của các triều đại từ Hán, Đường (Trung Quốc) được cử sang làm Thứ sử, Thái thú để quản lý vùng đất này. Thuyền buôn từ phía Nam ra hay từ ngoài Bắc vào cũng thường qua cảng biển này, và Lạch Trường đã trở thành một thương cảng buôn bán sầm uất. Có lẽ, trong bối cảnh này, mối giao lưu tương tác Việt - Hán, sự tiếp nối của nguồn gốc đồ đồng Đông Sơn đã tạo nên một bảo vật quý giá.
Sau này, thương cảng Lạch Trường vẫn phát triển vô cùng nhộn nhịp. Trần Phu, sử thần nhà Nguyên sang nước ta vào thế kỷ 14, trong An Nam tức sự đã mô tả về sự sầm uất của thương cảng Lạch Trường: "Các phiên thuyền ở hải ngoại tụ tập ở đấy, họp chợ ngay trên thuyền rất đông. Thật là một thị trấn lớn”.
Cây đèn được tìm thấy trong ngôi mộ cổ chứng tỏ những chiếc đèn có thể được xem là biểu hiện luân hồi của tạo hóa. Điều đó có nghĩa, chúng là vật dẫn đường chỉ lối cho người chết trong cuộc du ngoạn ở thế giới bên kia. (TS. Phạm Quốc Quân - nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)