Vang bóng chùa xưa nơi cựu đô
Cách đây khoảng 700 năm, thực hiện kế sách “Ngụ binh ư nông”, xây dựng quân đội gắn liền với nông dân, nông nghiệp, các vị hoàng đế nhà Trần có chủ trương khuyến khích các vương công, quý tử, công chúa đứng ra lập các điền trang thái ấp, mở mang làng xóm, chiêu mộ dân chúng khai khẩn đất hoang để cày cấy. Vị Phò mã tôn thất nhà Trần là Đô uý, Văn Định Vương, Lạng Giang trấn đô thống chế Văn nhượng hầu Trần Quốc Thi là người có công đầu trong việc chiêu dân xiêu tán cùng với dân sở tại lập ra trang Đại Trà. Nhân dân trang Đại Trà đã đóng góp nhiều nhân tài, vật lực cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên ở thế kỷ 13.
Theo truyền thống của người Việt, có làng, có xóm thì có chùa. Dựa trên bia ký được phát hiện tại chùa, sách Chùa cổ Hải Phòng cho biết: Chùa Đại Trà được xây dựng khang trang, to lớn bắt đầu từ thời nhà Mạc. Chùa gồm nhiều tòa ngang dọc, tổng cộng gần 50 gian bằng gỗ lim, mái lợp ngói sen. Nhà bia chứa gần 60 chiếc bia lớn nhỏ khác nhau ghi công ơn của những người trùng tu, tôn tạo. Vị sư trụ trì chùa lúc ấy là Hòa thượng họ Đào được mời làm quân sư về quân sự và chính trị cho triều Mạc. Nhiều vị hoàng đế, thân vương nhà Mạc đã tìm đến chùa đàm đạo với nhà sư. Đương thời, chùa Đại Linh là một sơn môn lớn, thu hút du khách bốn phương tấp nập tìm về viếng thăm, vãn cảnh.
Tuy nhiên, sau khi nhà Mạc lâm vào con đường suy vong, chùa Đại Trà cũng đã bị tàn lụi dần theo thời gian. Sau đó, chùa Đại Trà được tu bổ lớn vào năm Vĩnh Trị thứ 2 Hoằng Định (1677) đời vua Lê Hy Tông và các năm 1695, 1711, 1846, 1980, 2000. Hiện nay, tuy có đầy đủ các công trình như tòa thượng điện, nhà tổ, nhà hậu, vườn bia và vườn tháp nhưng quy mô kiến trúc không còn kỳ̀ vĩ được như xưa.
Di sản quý báu của cha ông
Hình bóng chùa Đại Trà vang bóng từ thời Mạc hiện chỉ còn được lưu lại qua hệ thống các di vật tượng Phật, bia ký, chứa đựng những giá trị lịch sử văn hóa to lớn, như pho tượng thân vương nhà Mạc, tượng Quan Âm tọa sơn...
Tượng Quan Âm tọa sơn bằng đá vôi xám nhưng đã được sơn son thiếp vàng. Tượng ngồi trên mỏm núi nhấp nhô dạng thủy ba, chân phải chống xuống chân trái khoanh lại ở tư thế nằm ngang, hai tay đặt trên đầu gối vẻ khoan thai tự tại, bên cạnh có một quả bầu. Đầu đội khăn có viền các núm bằng hoa cúc mãn khai, phía trên là những hoa văn cánh sen. Phía trên đầu nổi lên khối nhục khấu, sau gáy được trải dài bởi những lớp tóc. Trang trí trên mũ tượng theo đề tài hoa lá khắc nổi đã cho thấy những cơ sở để tạo ra tiền đề sau này cho hoa văn thời Lê Trung Hưng ở các thế kỷ tiếp theo.
Mặt tượng thon tròn, trái xoan, mũi cao, mắt nhìn xa xăm. Hai tai tượng dài và to quá cỡ như chúng ta thường gặp ở các tượng Phật khác mà sách vở thường coi đó là dị tướng. Pho tượng có nhiều nét gần giống với pho tượng Quan Âm tọa sơn chùa Thiên Phúc, một ngôi chùa cũng được xây dựng dưới thời Mạc ở thôn Hòa Liễu, xã Thuận Thiên cùng huyện. Tượng Quan Âm tọa sơn được các nhà nghiên cứu đánh giá là một pho tượng Quan Âm có niên đại tạo tác sớm ở nước ta.
Tượng vương nhà Mạc (có người cho rằng đây là pho tượng Ngọc Hoàng) được tạo tác bằng phiến đá liền khối, trong tư thế thiết triều, ngồi trên ngai rồng. Pho tượng này có nhiều nét giống với một số tượng thời Mạc được phát hiện trên đất Hải Phòng như ở chùa Trà Phương, chùa Lôi Động, chùa Trung Hành, chùa Đa Phúc... Tượng có khối hình đơn giản nhưng gợi mở cho ta về lòng từ tâm, tính phóng khoáng, nét mặt cương quyết và tràn đầy niềm tin.
Nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn Du Chi còn cho biết, phía sau ngai, đáng chú ý còn có chạm những dòng chữ Hán nói về việc làm tượng, họ tên của một số người cúng tiến và đặc biệt là niên đại tạo tác: Những người xã Đại Trà đã làm một pho tượng Phật ở chùa Đại Linh. Đứng đầu việc hưng công là Nguyễn Trung Lương, Ninh Quảng Phúc, Phạm Duy Năng... tức ngày 12 tháng 9 năm Diên Thành thứ nhất (1578) đời Mạc Mậu Hợp. Những pho tượng này là những tác phẩm quý giá góp phần làm sáng tỏ một thời rực rỡ trong lịch sử mỹ thuật thời Mạc, một triều đại tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại những thành tựu hết sức nổi bật.
Chùa hiện còn lưu giữ 7 tấm bia đá, trong đó có 5 bia niên đại thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII nhưng vẫn kế thừa được phong cách nghệ thuật thời Mạc như Đại Linh tự bi ký/Đại Trà xã bi ký/Tín thí (1612), Đại Linh tự bi/Nhất hưng công (1711)... Ngoài ra, còn một số tấm bia Hậu Phật thời Lê và 2 tấm bia triều Nguyễn niên hiệu Thiệu Trị, Thành Thái. Chùa Đại Trà còn lưu giữ một chuông đồng rất quý báu cho di sản của nước nhà có niên hiệu Cảnh Thịnh thời vua Nguyễn Quang Toản (triều Tây Sơn).
Chùa Đại Trà là một di tích hiện còn lưu giữ khá nhiều di vật phản ánh sự hưng thịnh của Phật giáo trên kinh đô Dương Kinh xưa, thời kỳ các vua nhà Mạc còn trị vì đất nước. Năm 1993, chùa Đại Trà đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ VHTTDL) xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.
Các pho tượng và bia đá chùa Đại Trà thực sự là tác phẩm điêu khắc có giá trị cao về nghệ thuật điêu khắc và lịch sử, góp phần làm sáng tỏ một thời rực rỡ trong lịch sử mỹ thuật thời Mạc.