Những dãy nhà lao như chìm trong sự u tịch của thời gian. |
2. Ngày nay ai cũng cảm thấy Đắc Lắc rất gần gũi, nhưng những năm xưa, khi Pháp xây dựng Nhà đày Buôn Ma Thuột, Đắc Lắc là một miền núi rừng hoang vu, hiểm trở, bị bao vây giữa bốn bề núi rừng trùng điệp rậm rạp nhiều thú dữ, khí hậu khắc nghiệt, độc địa. Từ kinh đô Huế tới đây là nghìn trùng cách trở, bởi vị trí địa lý khiến Đắc Lắc như bị cô lập với thế giới xung quanh. Buôn Ma Thuột là tỉnh lỵ của Đắc Lắc, lúc đó rất nhỏ bé, nghèo nàn, tăm tối. Từ tỉnh lỵ đi các nơi trong tỉnh chủ yếu là đường đất với các phương tiện giao thông như voi, ngựa, xe bò kéo.
Đưa tù chính trị người Kinh lên giam giữ ở một vùng dân tộc thiểu số bất đồng ngôn ngữ mà Pháp gọi một cách khinh miệt là vùng “mọi”, bị đặt dưới sự canh phòng nghiêm ngặt, Pháp cho rằng dù tù nhân có bỏ trốn cũng không có nơi nào ẩn náu, nếu không lạc vào rừng sẽ bị cọp ăn thịt. Trong đất liền Việt Nam lúc đó, Đắc Lắc giống như một “cô đảo”, bị đi đày ở đây thì cũng chẳng khác gì bị đày ra các hải đảo xa khơi. Thực dân Pháp tính rằng, ngoài việc tiêu diệt ý chí cách mạng, giết dần giết mòn tù chính trị một cách kín đáo, không tốn kém, chúng còn sử dụng được sức lực tù nhân cho mục đích kinh tế và xây dựng căn cứ quân sự ở Đắc Lắc và Tây Nguyên nhằm đối phó với nguy cơ bọn quân phiệt Nhật xâm lược Đông Dương.
Nhà đày Buôn Ma Thuột nay đã được chỉnh trang tu sửa lại, với một số tượng đặt ngay tại các buồng giam để mô tả cảnh sinh hoạt trước đây. |
Ở Buôn Ma Thuột lúc đó có một đội lính khố xanh người Thượng (Êđê) do Thanh tra Maulini chỉ huy. Hai sĩ quan giúp việc là Chánh cảnh vệ Moshine và Bonelli chỉ huy đồn lính khố xanh thị xã, kiêm cai quản nhà lao tỉnh. Đối với tù nhân Nhà đày Buôn Ma Thuột, cả ba tên chỉ huy nói trên là những con quỷ dữ. Tàn ác nhất là quản ngục Moshine, nói rất sõi tiếng Việt và tiếng Êđê, một điển hình về mất tính người. Y đánh đập tù nhân và cả binh lính người địa phương tàn nhẫn, thậm chí còn dùng lưỡi lê đâm tù nhân rồi liếm máu dính trên lưỡi lê. Giữa miền rừng núi âm u, những người tù lao dịch khổ sai ăn không đủ no mặc không đủ ấm, bị giam cầm, cùm kẹp, đánh đập dã man, hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần.
Mờ sáng, lính dẫn đoàn tù đi lao dịch. Đến công trường, lính gác đứng chung quanh để giám sát tù nhân làm việc, cứ 4 tù nhân có một lính canh. Lính canh dùng roi gậy đánh đập tù nhân, điều khiển công việc thay cho ngôn ngữ bất đồng. Sáng ra đi, bó roi của lính dài như những chiếc cần câu, tối về chỉ còn những mẩu ngắn. Roi của tên lính nào còn dài thì quản ngục sẽ đánh chính tên lính đó. Lao dịch trên công trường mỗi ngày tù nhân được ăn 700gram gạo, thức ăn có cá khô mục và bí đỏ đưa từ Nha Trang lên hoặc từ Campuchia sang.
Đến bữa ăn, cơm xới vào rá bày ra sân để nguội, gió rừng hút khô teo, cát bụi phủ đầy, tù nhân miệng đắng ngắt nuốt không nổi. Trên các công trường đã chôn vùi biết bao tính mạng tù nhân vì đất sập, đá đè, nước lũ cuốn, hổ báo ăn thịt hoặc vĩnh viễn ngã xuống vì những trận đòn và bệnh tật.
Tượng 2 nữ bạn tù. |
3. Năm 1930, khi quyết định xây Nhà đày Buôn Ma Thuột, thực dân Pháp ở Đắc Lắc dự tính, hàng năm tỉ lệ tù nhân chết ít nhất là 10%, nhưng sang năm 1931, chúng ước tính tỉ lệ đó tới 25%. Trong hai năm 1931 - 1932 đã có tới hơn 100 tù nhân chết, nhiều người trong số đó chôn ở nghĩa địa Lạc Giao (tài liệu lưu trữ tại Viện lịch sử Đảng).
Theo đó thì chỉ trong khoảng 5 năm, số tù nhân ở Đắc Lắc sẽ chết hết. Năm 1935, theo các báo chí công khai ở Huế tổng kết, trong số 100 tù nhân chết ở Buôn Ma Thuột thì có 24 người bị sốt rét đái ra máu. Trong 100 tù nhân thì 99 người có ký sinh trùng sốt rét trong máu. Có những bệnh nhân sốt gần 40 độ liên tục trong 4-5 ngày mà không được một viên thuốc nào và vẫn phải đi lao dịch trên công trường. Trong tình cảnh Nhà đày như thế, tù nhân chỉ có hai con đường: Hoặc là chết mòn trong yên lặng, trong mọi sự nhục nhã ê chề, hoặc đoàn kết tổ chức nhau lại để đấu tranh đòi bọn thống trị phải thực hiện các yêu cầu của họ trong khuôn khổ chế độ tù chính trị, giữ vững khí tiết và giành lấy sự sống. Cuộc đấu tranh phản đối khủng bố, đánh đập, bắn giết tù nhân càng ngày càng mạnh mẽ. Có những lúc toàn thể Nhà đày dấy lên những loạt hô khẩu hiệu như sấm: “Phản đối đánh đập dã man”, có người còn trích máu khẩu hiệu lên tường nhà lao: “À bas l’assassin Moshine” (Đả đảo tên giết người Moshine) (Lịch sử Nhà đày Buôn Ma Thuột 1930 - 1945, Tỉnh ủy Đắc Lắc). Song song với đấu tranh, các tổ chức trong Nhà đày còn đặc biệt chú trọng mở nhiều lớp văn hóa, chính trị, quân sự phù hợp với trình độ của từng đối tượng tù nhân và yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Nội dung học tập là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, năm loại công tác vận động quần chúng, Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ tám (5.1941), Chương trình Điều lệ Việt Minh... được một số đồng chí khi vào tù nhớ lại và ghi chép thành tài liệu thảo luận, học tập. Tài liệu được ghi chép rất công phu và cất giấu kín đáo trong các ống nước uống hai đáy, trong guốc, dép của tù nhân. Báo cáo số 180 ngày 16.1.1942 của Công sứ Buôn Ma Thuột gửi Khâm sứ Trung kỳ đã thừa nhận: “Sự tuyên truyền giữa các tù nhân ở Buôn Ma Thuột diễn ra thường xuyên đã chỉ rõ Nhà đày này quả là một trường cao cấp về chủ nghĩa cộng sản”... Dưới sức ép của dư luận trong nước và nhằm xoa dịu phong trào đấu tranh của quần chúng, của tù nhân khắp các Nhà lao, Nhà đày, đầu tháng 5.1945 Chính phủ Trần Trọng Kim đã ra sắc lệnh ân xá tù chính trị. Trong khoảng thời gian từ ngày 15 đến 20.8.1945, gần 300 chiến sĩ cộng sản, sau bao nhiêu năm tháng bị giam cầm đày ải, từng đoàn từng đoàn lần lượt từ giã Buôn Ma Thuột và Đắc Lắc “tung cánh” về xuôi, cùng toàn dân làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lịch sử.
Hàng rào dây thép gai bao quanh Nhà đày Buôn Ma Thuột. |
4. Tổng số tù bị đày đến Buôn Ma Thuột qua các phong trào cách mạng có hàng nghìn lượt đồng chí. Có gia đình bị địch giam cầm ở đây 2-3 anh em (như Lê Chưởng, Lê Hùng và Lê Vụ; Lê Tự Nhiên, Lê Tự Cuộc và Lê Tự Đồng; Lê Viết Lượng và Lê Viết Thanh; Trần Văn Quang và Trần Anh Bình...); có đồng chí bị giam ở đây 2-3 lần (như Trần Hữu Dục, Bùi San...). Có những người bị giam ở đây từ năm 1930 cho đến những ngày tiền khởi nghĩa năm 1945. Trong số tù nhân của Nhà đày Buôn Ma Thuột, đại bộ phận là đảng viên cộng sản, một số người trước khi vào tù đã giữ những chức vụ quan trọng trong các cấp bộ Đảng.
Thông tin về quản ngục Moshine và quang cảnh Nhà đày được vẽ thành tranh, treo trên tường Nhà đày hiện nay. |
“Tổng số tù bị đày đến đây, qua các phong trào: 1929, 1930, 1936, 1939, 1940 - 1945 có 3.855 đồng chí, gồm đại bộ phận là đảng viên cộng sản, trong đó có cả những ủy viên trung ương, xứ ủy, huyện ủy và chi ủy”.
“Từ sau cách mạng tháng tám đến nay, số đồng chí từng bị giam giữ ở Buôn Ma Thuột đã trải qua nhiều chức vụ quan trọng trong đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng và quân đội. Trong đó có 05 đồng chí trong Bộ Chính trị, 04 đồng chí trong Ban Bí thư, 19 đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 01 đồng chí là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, 4 Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, 43 Bộ trưởng, Thứ trưởng và tương đương, 33 Bí thư Xứ ủy, Khu ủy và Tỉnh ủy, 44 tướng lĩnh trong đó có 02 đại tướng, 02 thượng tướng và 50 đại tá”
(Báo Nhân Dân ngày 13.4.1990)
“Ngày nào không đánh, đá được lính tráng, không đánh đập, giết chết được phạm nhân thì tối về ăn không ngon cơm” đó là câu nói hàng ngày của Moshine, một trong những tên quản ngục khét tiếng nhất tại Nhà đày Buôn Ma Thuột. Quản ngục Mahomed Moshine là một “giống lai” quốc tế, một điển hình về mất tính người, tập trung tính hung ác, thú vật của “giống” thực dân khát máu và tàn bạo đến cực điểm. Chính cái “thú tính” đã được thực dân Pháp “thuần hóa” mà Moshine nhiều lần được trọng dụng làm sếp lao tại Nhà đày Buôn Ma Thuột.
Để đàn áp các cuộc đấu tranh của tù nhân, Moshine dùng mọi thủ đoạn hành hạ, tra tấn từ cùm chân, trói tay, dùng gậy có đóng đinh và vồ đập lên đầu đến dội nước phân, nước tiểu lên người tù. Độc ác hơn, hắn dùng lưỡi lê đâm vào chân, vào bụng của người tù rồi liếm máu trên lưỡi lê. Nửa đêm hắn nhảy vào phòng giam ôm ghì đầu người tù cắn tai, cắn mũi, liếm máu nhe nanh, nhăn trái, cười khì khì rồi nói một câu rùng rợn: “Tao khát máu chúng mày, tao phải uống máu chúng mày”.
Trong cuộc đời làm quản ngục ở Nhà đày Buôn Ma Thuột, Moshine đã gặp không ít các cuộc đấu tranh, biểu tình đòi tống cổ ra khỏi Nhà đày. Từ năm 1930 đến 1943, Moshine bị đưa đi chuyển về ba lần. Lần đầu vào năm 1934, lần thứ hai vào năm 1937, lần cuối cùng vào năm 1943. Phẫn nộ trước hành động giết người dã man của hắn, tập thể tù nhân đã tổ chức đấu tranh quyết liệt buộc chính quyền thực dân Pháp tại Đắc Lắc phải cách chức và chuyển hắn đi, chấm dứt thời gian cai quản của Moshine tại Nhà đày Buôn Ma Thuột”.
(Trích: Vượt ngục Đăk Mil của Nguyễn Tạo)
Chỉ vì đề đạt một nguyện vọng mà ba tù nhân bị tăng án
“Mới đây, ở Nhà tù Buôn Ma Thuột ba tù chính trị là Nguyễn Hữu Tuân, Nguyễn Duy Trinh và Hồ Thiết, mỗi người bị tăng thêm 5 năm tù giam chỉ vì cái tội đã yêu cầu được bãi bỏ hình phạt nhốt xà lim và ăn cơm khô hàng tháng. Vì đã nhiều lần các tù nhân đề đạt các thỉnh cầu đối với các hình phạt mà vẫn không được nhà cầm quyền cấp cao động lòng thương hại, nên họ đã phải tuyệt thực để được nhà cầm quyền lưu tâm hơn. Kết quả đó, mỗi một tù nhân nói trên đã bị tăng thêm 5 năm tù giam.
Tiếp theo vụ đó, một tù nhân khác tên là Thái Đồng đã yêu cầu nới rộng chỗ cùm chân. Kết quả là tù nhân này được tăng thêm 5 năm rưỡi tù giam, còn lỗ cùm chân thì vẫn không được nới rộng chút nào”.
(Báo Ánh Sáng, ngày 8.4.1935, dịch lại từ bản tiếng Pháp, tài liệu lưu trữ tại Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Đắc Lắc).