Gần 5 thế kỷ đã qua, nhưng tên tuổi của N. Machiavelli và tác phẩm xuất sắc nhất của ông “Quân vương” vẫn còn chỗ đứng vững chắc trong lịch sử và tác phẩm này vẫn còn được đọc rộng rãi, đặc biệt là các nhà nghiên cứu, các nhà hoạt động chính trị.
N. Machiavelli sinh ở Ý năm 1469, là con của một gia đình quý tộc thành Florence và mất ở tuổi 58. Ông là một nhà chính trị, ngoại giao, nhà sử học, nhà văn và nhà triết học, có ảnh hưởng to lớn trong ngành khoa học chính trị. “Quân vương” được viết vào năm 1513, gồm 26 chương. Cuốn sách xuất bản ở VN còn có phần phụ lục với 24 bài viết khác của N. Machiavelli. Trong thư đề tặng cuốn sách này cho thân vương Lorenzo Di Pietro Dé Medici, tác giả đã viết: “Tác phẩm này không tô điểm bằng những từ ngữ phù phiếm hay to tát, cũng không nhét vào những câu hoa mỹ được vẽ cho tròn trịa, không có những hấp dẫn ngoài lề hay bất cứ sự trang hoàng nào giống như bao người khác quen tô điểm tác phẩm của họ…”. Với tinh thần tự tin và đầy tự trọng, N. Machiavelli cũng thẳng thắn viết: “Thần cũng không đồng ý với những người coi cuốn sách như một sự ngạo mạn, vì một người ở địa vị thấp kém mà dám bàn bạc và giải quyết những chuyện liên quan đến các đấng Quân vương…”.
Không thể không thừa nhận N. Machiavelli là “một con người phi thường và khả năng quan sát, tính cách nhạy bén và đức chuyên cần, ông ghi nhận với con mắt thấu hiểu bất cứ điều gì diễn ra trước mắt ông, và với tài năng văn chương xuất chúng, ông ghi lại những điều đó…” (Lời giới thiệu của dịch giả W. K. Marriot). Thường khi khoa học chính trị gắn liền với một thời đại cụ thể, nhưng “Quân vương” đã vượt qua thử thách của thời gian, bởi nó có tính phổ quát rất cao và bởi nó đã bàn đến những vấn đề muôn thuở giữa những kẻ cai trị và người bị trị. Tác phẩm của N. Machiavelli không bị lỗi thời “bởi chừng nào các chính phủ còn dựa vào sức mạnh vật chất nhiều hơn vào sức mạnh luân lý…” và “con người không chịu nhìn nhận sự việc đúng như bản chất của chúng mà cứ muốn nhìn chúng theo như ý mình, và rồi sẽ bị tiêu diệt…”. Sức sống dài lâu của tác phẩm còn là ở chỗ “Quân vương chỉ có giá trị nghệ thuật hay lịch sử là sự thật không thể chối cãi rằng, nó bàn về cái nguyên tác lớn mà ngày nay vẫn đang dẫn dắt các quốc gia và nhà cai trị trong quan hệ giữa họ với nhau và các nước láng giềng”.
“CÁNH CỬA” Tiểu thuyết của Szabó Magda, Giáp Văn Chung dịch, Nhã Nam và NXB Văn học, 281 trang.
Hungary, đất nước khá là nhỏ bé ở Đông Âu có một nền văn học rất đáng nể trọng. Những nhà thơ như Sandor Petofi, Endre Ady và Attila Jószef đã định hình diện mạo nền văn học của xứ sở ấy. Đất nước này cũng có một đại diện được trao tặng giải Nobel Văn học năm 2009, nhà văn Kertész Imre. Trong số những nhà văn nổi tiếng nhất của thế kỷ XX, có nữ nhà văn Szabó Magda (1917 - 2007). Nền văn học Hungary chưa được giới thiệu nhiều ở Việt Nam, 3 nhà thơ lớn nhất của Hungary đầu tiên cũng chỉ được dịch qua tiếng Pháp. Đến những năm 70 - 80 của thế kỷ trước, có lẽ Lê Xuân Giang là người dịch từ nguyên bản tiếng Hung đầu tiên, nhưng chỉ là một vài tác phẩm nhỏ lẻ và chưa xứng tầm với giá trị của nền văn học ấy. Sau khi Kertész Imre đoạt giải Nobel văn học, cũng chỉ có một vài tác phẩm của ông được dịch sang tiếng Việt, nhưng phần lớn là qua ngôn ngữ khác nhau.
Những năm gần đây, Giáp Văn Chung là dịch giả hàng đầu dịch từ nguyên bản tiếng Hung. Sau Marai Sándor, nữ nhà văn Szabó Magda đã được ông giới thiệu. Trong sự nghiệp viết văn, làm thơ, kịch, tiểu luận, nghiên cứu, có lẽ tiểu thuyết “Cánh cửa” được xuất bản lần đầu ở Hung năm 1987 đã đánh dấu mốc quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tác của bà. Tác phẩm của bà đã được xuất bản ở hơn 40 nước trên thế giới, trong đó có hơn 10 tiểu thuyết đã được dựng thành phim và có lẽ “Cánh cửa” cũng là bộ phim đáng chú ý nhất với vai trò đạo diễn của Istvan Szabó và nữ diễn viên xuất sắc Helen Mirren đóng vai chính - bà giúp việc S. Emerenc cùng Martina Gedeck trong vai nữ nhà văn trẻ.
Trong cuộc đời cầm bút, Szabó Magda gặp nhiều khó khăn. Năm 1949, sách của bà không được in, bà bị đuổi việc và đến tận năm 1958 các tác phẩm của bà mới được phép lưu hành. Với “Cánh cửa”, qua nhân vật chính Emerenc, tác giả hoàn toàn có quyền tự hào: “Bà già quét đường - người nếu có thể làm được, luôn cố gắng quét hết mọi rủi ro, nguy hiểm cho mọi người - được vượt qua biên giới Hungary, hình tượng bà được biết trên đất nước Đức, cũng như trên Biển Bắc hay ở Thụy Sĩ, người New York ham đọc sách có thể thấy bà trong tủ sách “Chân dung Đông Âu” của Đại học Columbia và đến nay đã có mặt ở Việt Nam. Trong chương đầu có tên “Cánh cửa” của tiểu thuyết cùng tên này, tác giả viết: “Cuốn sách này không viết dành cho Chúa, người biết những bí mật của trái tim tôi, cũng không viết cho những cái bóng chứng giám mọi chuyện, và dõi theo những giấc mơ của tôi, mà viết cho những người khác…”. Cho đến phần vĩ thanh, chương kết càng có tên “Cánh cửa” tác giả nhấn mạnh lại: “Những giấc mơ của tôi giống hệt nhau, đó là những ảo ảnh trở đi trở lại, bao giờ tôi cũng chỉ mơ đúng một giấc mơ. Tôi đứng dưới chân cầu thang ngoài cổng nhà chúng tôi, phía trong chiếc cổng khung sắt lắp loại kính lưới thép không thể đập vỡ và cố mở khóa… Chìa khóa xoay. Nhưng tôi hoài công khó nhọc”.
Tiểu thuyết “Cánh cửa” nhưng chỉ nói về mối quan hệ của một nữ nhà văn trẻ với một người đàn bà suốt đời chỉ sống bằng việc quét dọn, nấu ăn, mà qua đó thể hiện cả một thời kỳ lịch sử dài của đất nước Hungary đau thương và bất hạnh.
Có lẽ đây là một trong những tác phẩm văn học đương đại xứng đáng để đọc.