Xin ông cho biết những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho ngoại giao Việt Nam?
- Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người sáng lập ra ngành Ngoại giao Việt Nam. Trong gần 60 năm hoạt động cách mạng, Bác để lại tư tưởng, phương pháp phong cách nghệ thuật ngoại giao. Đó chính là di sản quý, mang cả ý nghĩa dân tộc và quốc tế hội tụ, để cho các thế hệ ngoại giao sau này noi theo.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lấy lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết. Đặc biệt, “dĩ bất biến ứng vạn biến” là phương cách vô cùng hay và lúc nào chúng ta cũng vận dụng. Bác cũng nhắc nhở rằng, muốn làm ngoại giao thì phải có thực lực - thực lực chính là sức mạnh tổng hợp quốc gia ở trong nước - đồng thời, phải coi trọng các nước láng giềng, phải phối hợp quân sự, chính trị, ngoại giao. Nghệ thuật ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho đường lối đối ngoại, chính sách đối ngoại của Việt Nam
Ngày 2.9.1945, Bác Hồ đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Tuyên ngôn Độc lập có ý nghĩa như thế nào với những chính sách, chiến lược đối ngoại của Việt Nam sau này, thưa ông?
- Bản Tuyên ngôn Độc lập đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự nhanh nhạy của Bác Hồ ở chỗ, khi nắm được nghị quyết của hội nghị Potsdam cử lực lượng vào Việt Nam giải giáp quân đội Nhật, từ lán Nà Lừa (Tân Trào - Tuyên Quang), Bác quyết định phải về nhanh để thành lập chính phủ, nhằm làm chủ đón trước chứ không để có khoảng trống quyền lực.
Do đó, Bác Hồ ra chỉ thị rất nhanh. Ngày 25.8, Bác Hồ về tới Hà Nội. Ngay ngày 26.8, Bác Hồ cho rằng cần có tuyên bố để ra mắt chính phủ. Bác thay đổi cách tiếp cận của thế hệ xưa và cho rằng cần có bản tuyên bố ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, để quốc dân, quốc tế biết.
Trong 4 ngày, từ 26-29.8, Bác Hồ soạn xong bản Tuyên ngôn Độc lập. Đây là bản Tuyên ngôn Độc lập thứ 3 của Việt Nam, sau tuyên ngôn độc lập của Lý Thường Kiệt và “Bình Ngô đại cáo” sau chiến thắng chống quân Minh.
Đây là bản Tuyên ngôn Độc lập có ý nghĩa vô cùng to lớn với nhân dân và cách mạng Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập ngày 2.9.1945 khẳng định, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới đã ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quan hệ bình đẳng với tất cả các nước trên thế giới, đồng thời mong rằng các nước trên thế giới công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia mới.
Tuyên ngôn Độc lập ngày 2.9.1945 trở thành nền tảng cho nước Việt Nam sau này. Không có tuyên bố thành lập nước thì đâu thành chủ thể trong quan hệ quốc tế được. Do đó, bản tuyên ngôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, có giá trị cho dân tộc Việt Nam, có giá trị quốc tế và giá trị trong mọi thời đại.
Quá trình đưa ra và thực thi đường lối ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời có những câu chuyện nào đáng chú ý, thưa ông?
- Đồng thời với tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến hành loạt biện pháp để thế giới công nhận. Củng cố “thế” này là cực kỳ quan trọng để sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính danh, không “đơn thương độc mã”, được thế giới tạo điều kiện giúp đỡ, ủng hộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng tiến hành các biện pháp đối nội nhưng mang cả tác dụng về đối ngoại. Ví dụ, khi về Hà Nội, Bác đổi Ủy ban giải phóng thành Chính phủ và mở rộng thành phần Chính phủ cho các lực lượng khác tham gia. Điều này giá trị ở chỗ khẳng định Chính phủ đại diện cho rộng rãi nhân dân Việt Nam…
Khi Chính phủ ra đời cần phải có đường lối chính sách hoàn chỉnh. Do vậy, ngay ngày 3.10.1945, đích thân Bác Hồ soạn thông cáo của chính phủ lâm thời về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đó. Thông cáo nêu những đường hướng cơ bản về đối ngoại của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong quan hệ với các nước đồng minh, với các nước Đông Dương... Tuyên bố ngày 3.10.1945 về chính sách đối ngoại Việt Nam đã hình thành nền tảng phương pháp, phong cách, nguyên lý, nguyên tắc của chính sách đối ngoại Việt Nam, góp phần thành chính sách đối ngoại rộng mở sau này.
- Xin cảm ơn ông!