Phát biểu tại lễ khánh thành, Bộ trưởng Bộ NNPTNT Lê Minh Hoan cho rằng đây là công trình của lòng dân.
Theo Bộ trưởng Lê Minh Hoan, bên cạnh các nguồn lợi to lớn, công trình còn là biểu tượng vẻ đẹp và trí tuệ con người Việt Nam. Qua đây cũng sẽ cơ cấu lại ngành nông nghiệp ở khu vực ĐBSCL. Thời gian tới, dự án sẽ tiếp tục mở rộng vùng hưởng lợi, nâng cao năng lực cộng đồng, cải thiện sinh kế cho người dân.
Trong tương lai, tình hình biến đổi khí hậu, nước biển dâng cộng với lún sụt đất diễn ra nhanh và phức tạp nên các khu vực đường sá, nhà cửa có cao độ thấp sẽ bị ngập và ngập sâu. Sau khi hoàn thành nâng cấp toàn bộ các tuyến đê dọc sông Cái Lớn, Cái Bé ra đến biển, công trình cống Cái Lớn, Cái Bé và Xẻo Rô sẽ kết hợp với các tuyên đê này và đê biển Tây để bảo vệ toàn bộ khu vực bên trong vùng dự án và bên trong đê.
Các tuyến đê dọc sông Cái Lớn, Cái Bé gần phạm vi công trình đã tạo thành đê bao bảo vệ khu vực bên trong mỗi khi triều cường dâng cao, đồng thời kết hợp thành đường giao thông nông thôn phục vụ việc đi lại cho người dân.
Tại lễ khánh thành, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho rằng đây là công trình của ý Đảng, lòng dân, trí tuệ con người Việt Nam.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, ĐBSCL có tiềm năng vô cùng to lớn nhưng thách thức đi kèm không hề nhỏ. Nơi đây phải chịu tác động lớn của biến đổi khí hậu, các cơ chế chính sách còn hạn hẹp... “Thời gian tới, chúng ta cần phải chủ động thích ứng, kiểm soát, cần có sự đột phá, tầm nhìn chiến lược. Phải thay đổi tư duy từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp, từ chống đỡ sang chủ động ứng phó" - Thủ tướng nhấn mạnh.
Thủ tướng cũng yêu cầu các tỉnh vùng dự án phải tháo gỡ các nút thắt về hạ tầng giao thông, nâng cao nguồn nhân lực, kết nối vùng, tận dụng sức mạnh nhân dân, tranh thủ trí tuệ con người để phát triển hơn nữa nguồn lợi sẵn có. Cần nghiên cứu cây trồng vật nuôi phù hợp, khai thác cảnh quan, tạo công ăn việc làm cho người dân... Việc khai thác sử dụng vận hành cống phải khoa học, tránh lãng phí và nghiên cứu chuẩn bị các điều kiện để tiếp tục triển khai giai đoạn 2.
Dự án thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1 có tổng vốn đầu tư hơn 3.300 tỉ đồng, trong đó có hai “siêu cống” Cái Lớn, Cái Bé là cống lớn nhất Việt Nam hiện nay. Dự án được khởi công từ tháng 10.2019, hoàn thành tháng 11.2021, có chức năng kiểm soát nguồn nước (mặn, lợ, ngọt), tạo điều kiện sản xuất ổn định, bền vững đối với các mô hình sản xuất theo hệ sinh thái tương ứng.
Không chỉ phát triển thủy sản ổn định ở vùng ven biển của tỉnh Kiên Giang mà dự án này còn kiểm soát mặn, giải quyết mâu thuẫn giữa vùng nuôi trồng thủy sản ven biển và vùng sản xuất nông nghiệp của các tỉnh Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu. Dự án sẽ kiểm soát nguồn nước trên sông Cái Lớn, Cái Bé và Xẻo Rô để phục vụ sản xuất và đời sống cho người dân bên trong vùng dự án.
Các công trình cống Cái Lớn, Cái Bé, Xẻo Rô tuyến đê nối cống Cái Lớn, cống Cái Bé với Quốc Lộ 61, Quốc Lộ 63 được xây dựng trên địa bàn huyện Châu Thành, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với địa phương và khu vực miền Tây.
Sau khi hoàn thành thử nghiệm Quy trình vận hành Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1, một số địa phương trong vùng Tây Sông Hậu đã có kiến nghị Trung ương tiếp tục triển khai giai đoạn 2 của dự án này để đảm bảo khép kín hơn nữa việc ngăn xâm nhập mặn cho vùng ĐBSCL.
Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé được ứng dụng công nghệ số trong hỗ trợ vận hành, kiểm soát nguồn nước thông qua 5 trạm khống chế vận hành (độ mặn, mực nước, nhiệt độ) và 10 trạm giám sát môi trường được đặt tại các vị trí trong vùng dự án, các số liệu đo được tự động truyền về Nhà điều hành để xử lý và phục vụ việc hỗ trợ ra quyết định vận hành các công trình. Về lâu dài, sẽ tích hợp thêm các điểm quan trắc mà các địa phương đã xây dựng trong vùng dự án để nâng cao hiệu quả, tính chính xác và kịp thời trong việc hỗ trợ ra quyết định vận hành. Các cơ quan quản lý, đơn vị và người nông dân có thể truy cập dễ dàng trên trang web vận hành để nắm thông tin vận hành, đặc biệt biết được độ mặn, mực nước và các chỉ số chất lượng nước theo thời gian thực, để có kế hoạch lấy nước (ngọt, lợ, mặn) phục vụ sản xuất phù hợp.