Ngân hàng số ở Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn khởi đầu của sự phát triển. Trong khi các ông lớn như Alipay, Wechat đang lăm le chiếm lĩnh thị trường Việt Nam thì các ngân hàng Việt vẫn “kêu khó” khi hành lang pháp lý về ngân hàng số vẫn còn chưa bắt kịp xu hướng phát triển.
“Có câu nói mà tôi rất thích “Dịch vụ ngân hàng thì cần thiết nhưng ngân hàng thì chưa chắc cần thiết”. Do vậy xu hướng cạnh tranh của công ty fintech đặt ra vấn đề nếu ngân hàng không thực sự thay đổi thì khách hàng sẽ rời bỏ ngân hàng và sử dụng công ty Fintech vì Fintech thân thiện hơn với người sử dụng và chi phí rẻ hơn” - bà Nguyễn Thuỳ Dương - Phó Tổng Giám đốc, Dịch vụ tài chính ngân hàng Công ty EY - cho biết.
Theo ông Phạm Tiến Dũng - Vụ trưởng Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước: “Cách đây 5 năm, NH đưa ra dịch vụ gì thì khách hàng dùng dịch vụ đó. Hiện nay, các dịch vụ thực hiện theo yêu cầu của khách hàng. Các NH truyền thống đang phải cạnh tranh với công ty Fintech”.
Mặc dù Việt Nam là thị trường có tiềm năng to lớn nhưng theo các chuyên gia, việc ứng dụng công nghệ trong cung ứng dịch vụ tài chính gặp nhiều khó khăn do bất cập trong quy định hiện hành. Điển hình là quy định nhận diện và xác thực thông tin khách hàng. Thêm vào đó, việc công nghệ số hoá các ngân hàng số khiến các ngân hàng phải đối diện với các thách thức về bảo mật, an toàn thông tin và sự cố rủi ro mạng.
Bà Nguyễn Thuỳ Dương - Phó Tổng Giám đốc, Dịch vụ tài chính ngân hàng Công ty EY - cho rằng “Khi kỷ nguyên số phát triển mạnh mẽ, ngay cả em bé cũng biết gạt tay sử dụng điện thoại thì các nhà quản lý không thể thụ động chờ đợi mà cần tiếp cận như thế nào dưới góc độ quản lý nhà nước. Hiện nay ở Việt Nam, để xác thực người dùng trong dịch vụ mở tài khoản, các ngân hàng yêu cầu khách hàng phải đến quầy giao dịch và xuất trình chứng minh thư và ký chữ ký tươi vào các giấy tờ. Theo đề án phát triển tài chính toàn diện Việt Nam, hiện 70% dân số nước ta chưa có tài khoản ngân hàng. Nếu cải thiện được hành lang pháp lý để khách hàng có thể tiếp cận nhiều dịch vụ khác của NH như dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, gửi tiết kiệm, vay vốn… sẽ giảm thiểu rủi ro khi khách hàng tiếp cận nguồn vốn khác không chính thức”.
Về phía ngân hàng, theo bà Nguyễn Thuỳ Dương, việc mở ra hành lang pháp lý cho các ngân hàng phát triển nhiều hơn về dịch vụ ngân hàng số sẽ tiết kiệm chi phí cho các ngân hàng. Họ có được sự hiện diện phi vật lý đối với các chi nhánh của mình thay vì phải tiêu tốn nhiều tiền bạc để thuê địa điểm, nhân viên, thì đây là khoản tiết kiệm lớn.
Ông Nguyễn Hưng - Tổng Giám đốc TPBank - chia sẻ về những khó khăn về hành lang pháp lý mà các ngân hàng hiện nay đang gặp phải: “Để đưa ra các sản phẩm, tôi vẫn hay đùa với mọi người là sợ nhất hai thứ. Một là sợ phải đi xin cấp giấy phép bởi các quy định trong những thông tư hiện hành hầu hết không có những điều này. Sợ nhì là bộ phận pháp chế của ngân hàng”.
Đáp lại câu nói đùa của ông Nguyễn Hưng TPBank, Vụ trưởng Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước Phạm Tiến Dũng cho biết: “Ông Hưng nói sợ xin phép thì tôi thú thực, ở cương vị Vụ trưởng Vụ Thanh toán, tôi cũng sợ khi phải cấp phép. Các văn bản quy định pháp luật được xây dựng từ nhiều năm trước, khi mà chưa ai nghĩ sau này có QR Pay... như bây giờ nên khi cấp phép, đối chiếu vào các quy định đó thì cả người xin phép lẫn người cho phép đều sợ cả”.
Theo ông Phạm Tiến Dũng - Vụ trưởng Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước, mặc dù Việt Nam đã có những tiến bộ nhất định về xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán điện tử, thanh toán thẻ…tuy nhiên vẫn còn nhiều trở ngại về mặt quy định, pháp lý, thủ tục giấy tờ trong hệ thống, khiến thanh toán số chưa thể mở rộng nhanh và dễ dàng với nhóm khách hàng trẻ ưa tiện lợi, không thủ quy củ gò bó và những người dân ở các vùng sâu vùng xa. Theo ông Dũng, trước mắt cần nhanh chóng sửa đổi Nghị định 106 hướng dẫn về Phòng chống rửa tiền, và các văn bản liên quan để cho phép mở tài khoản không cần gặp mặt trực tiếp, áp dụng công nghệ quốc tế để nhận biết khách hàng điện tử mà vẫn đảm bảo nhận diện, xác thực chính xác khách hàng. Quan trọng hơn là về dài hạn cần nghiên cứu luật về hệ thống thanh toán trong đó có nội dung cấp phép, quản lý, giám sát các tổ chức không phải là ngân hàng cung ứng dịch