Tiến sĩ Tô Văn Trường - nhà nghiên cứu độc lập về tài nguyên nước, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam - cho biết, trong báo cáo mới nhất, Tổ chức Climate Central (Mỹ) lập ra bản đồ những nơi trên thế giới có thể bị nước biển “nhấn chìm” trước năm 2030. Báo cáo này dựa trên dữ liệu của Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) thuộc Liên hiệp quốc.
Theo đó, nhiều thành phố ven biển trên khắp thế giới, đặc biệt là 6 thành phố, trong đó có TPHCM được cảnh báo có nguy cơ bị nước biển “nhấn chìm” sớm hơn dự báo trước đây. Nguyên nhân là Biến đổi khí hậu khiến băng ở hai cực tan với tốc độ báo động.
Theo dự báo mới nhất, TPHCM có thể bị “nhấn chìm” trước năm 2030, nhất là khu vực phía Đông nằm cạnh sông Sài Gòn và khu Thủ Thiêm vốn là đầm lầy trũng thấp. Thậm chí, trong trường hợp không bị chìm, nhiều khu vực có thể trở nên khó sinh sống do nhiều yếu tố như lũ lụt và bão gây nên nhiều bất an trong xã hội...
Theo TS Tô Văn Trường, cảnh báo này đáng quan tâm, nhưng không nên hiểu là nó sẽ xảy ra thực sự - làm dư luận bất an. Bởi kết quả dự tính mực nước biển dâng có tính bất định (tính không chắc chắn) rất cao do các mô hình chưa mô tả được một cách đầy đủ và chính xác các quá trình nhiệt động lực học băng (cả băng biển và băng lục địa).
Tuy nhiên, theo TS Trường, cảnh báo này cần được các cơ quan chức năng và các nhà khoa học Việt Nam chủ động nghiên cứu, kiểm nghiệm để có các kịch bản ứng phó kịp thời trước mắt cũng như lâu dài. Các nghiên cứu chuyên sâu đã chứng minh, gây nên biến đổi khí hậu - trong đó làm nước biển dâng - có cả yếu tố tự nhiên lẫn yếu tố do con người.
Theo TS Trường, đối với TPHCM, nếu căn cứ vào các cơ sở dữ liệu được sử dụng trong các công bố quốc tế thì độ cao trung bình của thành phố hiện nay xấp xỉ mực nước biển trung bình. Do đó, những lúc triều cường, mực nước sẽ cao hơn địa hình thành phố. Hiện tại người ta cũng chỉ ước tính trung bình mực nước biển dâng khoảng 2 - 4mm/năm. Nghĩa là từ nay đến 2030 mực nước biển tăng khoảng 2 - 4 cm, chỉ tương đương bậc đại lượng của mức độ sụt lún (2 - 4 cm/năm). “Nghĩa là tốc độ dâng của mực nước biển có thể nhanh hơn dự tính trước đây, nhưng không nhanh đến mức “trở tay không kịp” - TS Trường nhấn mạnh.
Vì vậy, theo TS Trường, vấn đề đầu tiên là phải xây dựng được các kịch bản Biến đổi khí hậu - nước biển dâng có độ tin cậy cao nhất có thể. “Kịch bản phải được xác định dựa trên một tập hợp các sản phẩm dự tính khí hậu tương lai. Do tính bất định của các mô hình khí hậu, mức độ nhạy cảm của hệ thống cũng như của các kịch bản phát thải khí nhà kính nên số dung lượng mẫu càng lớn thì độ tin cậy của kịch bản Biến đổi khí hậu – nước biển dâng nhận được càng cao” - TS Trường nhấn mạnh.
Thực tế cho thấy, Việt Nam đã có 3 kịch bản Biến đổi khí hậu – nước biển dâng 2009; 2012 và 2016. Riêng phiên bản 2020 chưa công bố, nhưng là cố gắng lớn của các nhà khoa học Việt Nam dựa trên 5 kịch bản của IPCC. “Tuy nhiên, có thể lạc quan rằng, với đội ngũ cán bộ khoa học hiện có, cộng với sự hỗ trợ giúp đỡ của cộng đồng các nhà khoa học quốc tế, chúng ta hoàn toàn sớm có được những kịch bản Biến đổi khí hậu - nước biển dâng với độ tin cậy cao” - TS Trường cho biết.